Tập 21 ĐẠI TRÍ TUỆ CỦA ĐỨC PHẬT

 LỜI MỞ ĐẦU

Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:

“Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường. Con xin cảm tạ Bồ Tát”.

 Tập 21

ĐẠI TRÍ TUỆ CỦA ĐỨC PHẬT

(21/03/2020)

Triết học chính là phân tích tại sao trong quá trình giao tiếp giữa người với người, chúng ta lại dễ bị lây nhiễm nhiều loại cảm xúc đến vậy. Tâm thái người học Phật chúng ta sẽ trở nên thiện lương khi ở cùng với những người cũng tu tập học Phật. Nếu hôm nay chúng ta ở cùng với một người không thiện lương, tâm thái của chúng ta sẽ trở nên bất thiện.

Sư phụ nói với mọi người rằng mong muốn mọi người thoát khỏi ưu phiền (ưu uất, trầm cảm), đó là phải biết hoán đổi vị trí cho nhau. Thường xuyên nghĩ đến đối phương, thì quý vị sẽ giảm bớt áp lực trong lòng mình. Bởi vì nếu chuyện này không xảy ra với quý vị, áp lực của quý vị rõ ràng sẽ nhẹ đi; còn nếu chuyện này xảy ra với chính quý vị, quý vị sẽ rơi vào ưu phiền. Đó là lý do Sư phụ nói với quý vị rằng cảm xúc giống như virus, chúng lây lan rất nhanh, bất tri bất giác sẽ lây nhiễm cho người khác. Vì vậy, chúng ta phải học cách tự bảo vệ mình, không bị cảm xúc của người khác lây nhiễm, đây mới gọi là người có trí tuệ. Lòng từ bi cũng có tính lây lan: hôm nay quý vị từ bi, người kia cũng từ bi, tất cả chúng ta cùng nhau từ bi, đó gọi là đại từ đại bi. Cho nên chúng ta cùng nhau độ người, đó gọi là quảng độ hữu duyên. Hôm nay chúng ta tịnh tâm tịnh ý, hoàn toàn dùng tâm thanh tịnh của mình để giúp đỡ người khác, thì quý vị chính là đang tạo ra một môi trường yêu thương. Vì thế, tâm chúng ta tịnh thì tự nhiên linh, tâm định thì trăm ngàn chướng ngại không thể xâm phạm (tâm định bách chướng bất xâm). Người mà tâm có thể định tĩnh, thì mọi chướng ngại không thể xâm nhập vào họ. Tâm linh là ổ khóa, vậy có chìa khóa không? Đó chính là pháp môn, để mở cánh cửa tâm linh của quý vị.

Bất kể chúng ta làm việc gì, phải nhớ rằng những gì bây giờ không thể làm được, có khả năng sau này sẽ làm được. Nếu trong tâm quý vị mọc đầy cỏ dại, và quý vị cho rằng việc này không thể thành tựu, thì quý vị quả thực không thể nào gặt hái được quả lành. Chỉ cần trong tâm quý vị có hoa sen, dù hoa sen chưa nở nhưng nó là một hạt giống, một ngày nào đó nó sẽ lớn thành hoa sen. Một tâm linh bị tạp niệm trói buộc thì sẽ không thể tu tập thành công đức. Người học Phật chúng ta phải học theo lòng đại từ đại bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, dùng tâm từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát để độ hóa chúng sinh, để cảm hóa mỗi một người con Phật, để Phật tánh trong tâm mỗi người được khơi dậy. Đây chính là chân lý đích thực của việc học Phật của chúng ta ngày nay.

Nhanh quá, thời gian trôi thật nhanh, Sư phụ muốn kể cho quý vị nghe một câu chuyện.

Đức Phật có một người em trai tên là Nan Đà. Nan Đà là em cùng cha khác mẹ với Đức Phật Thích Ca, tên đầy đủ là “Tôn Đà La Nan Đà” (Phạn: Sundara-Nanda), mọi người thường gọi cậu là “Nan Đà”. Người em này cưới được một người vợ đẹp như hoa, vợ chồng vô cùng ân ái. Nhưng người em này lại rất ngưỡng mộ trí tuệ và sự tu hành của Đức Phật, cậu cũng muốn theo Phật xuất gia, nhưng vì người vợ yêu quý ở nhà, quyến luyến khó rời, nên trong lòng cậu vô cùng mâu thuẫn.

Một hôm, Đức Phật đi khất thực, tình cờ đến trước cửa nhà Nan Đà. Ngài hỏi Nan Đà: “Con đang bận việc gì vậy?”

Nan Đà, em trai của Đức Phật, thưa: “Con và Tôn Đà Lợi (Sundarī) mới kết hôn chưa lâu. Nàng là người phụ nữ đẹp nhất trong mười sáu thành ở nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu). Mỗi ngày con phải làm rất nhiều việc cho nàng, kể cả giúp nàng trang điểm, nên không có thời gian đến thăm viếng Đức Phật.” Cậu nói tiếp: “Điều hạnh phúc nhất trên đời là có được người vợ xinh đẹp, nay con đã có được rồi, nên những chuyện khác không còn khiến con bận tâm nữa. Tôn Đà Lợi muốn con suốt ngày ở bên cạnh nàng, cũng không cho phép con quan tâm đến chuyện của người khác. Con không thể không nghe lời nàng, bởi vì nàng thật sự là lẽ sống của con. Hôm nay Đức Phật đại từ đại bi đến nhà con, không biết Ngài muốn con cúng dường những gì? Xin Ngài nhanh lên một chút, con sợ Tôn Đà Lợi đợi con sẽ sốt ruột.”

Nghe những lời này, Đức Phật biết rằng dù có nói bao nhiêu đạo lý cũng không thể lay chuyển được cậu, chỉ có sự thật mới có thể khiến cậu giác ngộ quay đầu. Vì Đức Phật có đại thần thông của bậc Giác Ngộ, Ngài liền dùng thần biến đưa em trai mình đến vùng ngoại ô. Phật chỉ vào một con khỉ cái rất bẩn thỉu và xấu xí, rồi hỏi em trai: “Này Nan Đà, vợ con là Tôn Đà Lợi so với con khỉ cái này thì thế nào?”

“Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài đừng trêu con!” Nan Đà không vui nói: “Vợ con có vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, dung nhan kiều diễm có một không hai, tình cảm với con quyến luyến không rời. Nàng tựa như tiên nữ trên trời, làm sao có thể so sánh với con khỉ cái này được?”

Đức Phật lại từ ái nói: “Này Nan Đà, vợ con thật sự đẹp như tiên nữ trên trời sao? Thảo nào con nghe ta nói mà tức giận. Tuy nhiên, tiên nữ trên trời thì con chưa từng thấy, họ không thể so sánh với phụ nữ ở thế gian. Nếu con muốn diện kiến tiên nữ trên trời, ta có thể thỏa mãn mong muốn của con, có thể đưa con lên trời xem ngay tức khắc.”

Lập tức, Đức Phật vận dụng uy đức thần lực, trong nháy mắt đưa em trai lên cõi trời. Nan Đà thấy những cung điện nguy nga tráng lệ, nghe tiếng nhạc du dương êm tai, ngửi thấy hương hoa thơm ngát, tâm hồn Nan Đà bay bổng. Dạo bước giữa biển hoa thơm ngát, rực rỡ muôn màu, Nan Đà thấy một vài thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần đang vui đùa ở đó, cậu bị vẻ đẹp của họ làm cho ngẩn ngơ. Đó là các thiên nữ, khi thấy Đức Phật, họ đều đến làm lễ, cúi đầu chào hỏi.

Đức Phật hỏi một vị thiên nữ: “Này thiên nữ, cô đã kết hôn chưa?”

Thiên nữ e thẹn đáp: “Dạ, vẫn chưa.”

Đức Phật lại hỏi: “Tại sao cô vẫn chưa kết hôn?”

Thiên nữ thưa: “Hôn duyên của con vẫn chưa chín muồi. Người chồng tương lai của con hiện vẫn còn ở nhân gian trong thế giới Ta Bà. Chàng tên là Nan Đà. Phải đợi sau khi chàng hưởng hết phước báo ở nhân gian, sinh lên cõi trời này, con mới kết hôn cùng chàng. Hiện giờ con vẫn đang đợi.”

Đức Phật nghe xong, gật đầu. Nhưng Nan Đà đứng bên cạnh nghe vậy không nhịn được, nói: “Bạch Thế Tôn, vị thiên nữ này đã có duyên với con như vậy, con không muốn trở lại nhân gian nữa. Vợ của con ở nhân gian, làm sao sánh được một phần triệu vẻ đẹp của thiên nữ này.”

Đức Phật đưa tay ra hiệu, bảo các thiên nữ cứ tiếp tục vui đùa, rồi vừa đi vừa nói với Nan Đà: “Con không nghe thiên nữ nói nhân duyên của hai người vẫn chưa chín muồi sao? Đừng vội, ta sẽ đưa con đến một nơi khác xem thử.”

Nói rồi, Đức Phật như một cơn gió đưa em trai Nan Đà đến chốn địa ngục tối tăm. Nan Đà không khỏi rùng mình, sợ hãi, cẩn thận đi theo sau Đức Phật. Dọc đường, cậu cảm thấy sàn nhà gập ghềnh, dường như nghe thấy tiếng kêu khóc thảm thiết của quỷ thần văng vẳng xa gần, không nỡ tai nghe mắt thấy. Bất chợt, họ đến một nơi trông giống như một hang động rộng lớn dưới vách núi đá, âm khí nặng nề. Khắp nơi là những lò lửa đỏ rực, trên bếp đặt những chảo dầu nóng hôi hổi, dầu sôi sùng sục. Các quỷ sứ đều có dung mạo gớm ghiếc, mặt xanh nanh vàng, hung tợn kinh người. Chúng dùng những cây đinh ba lớn xiên tội nhân ném vào chảo dầu. Tiếng kêu la thảm thiết vang lên, da thịt nát bươm, mặt mày biến dạng. Nhưng chúng không để tội nhân chết ngay, mà đợi đến khi họ đau đớn tột cùng mới kéo lên, rồi lại xiên xuống, khiến họ phải chịu đựng cực hình đau đớn. Nan Đà tận mắt chứng kiến tất cả, kinh hãi tột độ, lúc này cậu không đi nổi nữa, hai chân mềm nhũn.

Thấy Đức Phật chỉ vào một con quỷ già đang ngồi bên chiếc bếp lò trống không, hỏi: “Này quỷ sứ, tại sao ngươi lại ở đây?”

Quỷ già đáp: “Diêm La Vương sai ta đến đây chờ đợi. Có một người tên Nan Đà, do nhiều đời tạo nghiệp ác, sau khi hưởng hết diễm phúc ở nhân gian và trên cõi trời, hắn sẽ từ cõi trời rơi xuống địa ngục. Lúc đó, ta sẽ phải bận rộn nhóm lửa, đun dầu để hành hình hắn.”

Nan Đà nghe vậy, sợ đến hồn bay phách lạc. Cậu hiểu ra rằng, nếu không liễu thoát sinh tử, dù có được sinh lên cõi trời thì vẫn còn trong tam giới, không thoát khỏi ngũ hành, vẫn phải chịu khổ đau trong sáu nẻo luân hồi. Vì vậy, việc xuất gia tu đạo là cấp bách không thể trì hoãn. Thế là, cậu quyết tâm theo Phật xuất gia, an tâm tu hành. Cũng chính vì đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng thảm khốc của địa ngục, nên trong quá trình tu hành sau này, Nan Đà giữ gìn thanh quy giới luật một cách trong sạch, không hề vi phạm dù là những giới điều nhỏ nhặt nhất. Đức Thế Tôn đã khen ngợi cậu là người trì giới đệ nhất.

Câu chuyện này muốn nói với chúng ta rằng, người học Phật không nên tham luyến. Một khi đã học Phật, chúng ta phải hiểu rõ chân lý thế sự vô thường. Chúng ta không thể vì những tham ái nhất thời ở nhân gian mà làm những việc điên đảo, ngu si vốn là bản tính của phàm phu. Chúng ta nên bi mẫn họ, dùng lòng từ bi để nhiếp thọ, nâng đỡ những chúng sinh đang chịu khổ nạn ấy. Chúng ta cần quản lý tốt bản thân, đồng thời phải dùng nhiều phương tiện thiện xảo khác nhau để cứu độ chúng sinh. Giống như nhiều pho tượng Phật, tại sao có những pho tượng mang gương mặt phẫn nộ, có những pho tượng mang gương mặt tịch tĩnh (an tĩnh/thanh tịnh), lại có những hình tượng Bồ Tát từ bi cứu độ chúng sinh? Sự cương mãnh của Kim Cang Bồ Tát và lòng từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, tất cả đều là phương tiện thiện xảo để cứu độ chúng sinh.

Được rồi, bài giảng hôm nay của Sư phụ dành cho quý vị đến đây là kết thúc. Mong rằng mọi người sẽ học Phật thật tốt, vì chỉ có Đức Phật mới có thể dẫn dắt chúng ta có Chánh tín Chánh niệm, thoát ra khỏi những vực thẳm của cuộc đời, và vươn đến Bát Nhã vĩ đại, trí tuệ và viên mãn. Cảm ơn quý vị.

Việt dịch chú thích tham khảo:

Tập 21 Bạch thoại Phật Pháp đến đây là kết thúc. Trong quá trình biên dịch nếu có sai sót, hoan nghênh và chân thành cám ơn tất cả mọi người góp ý. Xin cám ơn mọi người đã cùng đồng hành.

>> Tập 22

Mới hơn Cũ hơn