LỜI MỞ ĐẦU
Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:
“Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường. Con xin cảm tạ Bồ Tát”.
Tập 16
THUẬN DUYÊN NGHỊCH DUYÊN, PHẬT ĐẠO TỰ NHIÊN
(18/03/2020)
Quý Phật hữu thân mến, hôm nay chúng
ta tiếp tục với bài giảng “Bạch Thoại Phật Pháp”.
Chúng ta sống trên đời này, kỳ thực, ý
niệm đầu tiên (niệm đầu) là quan trọng nhất. Kinh Phật thường dạy, một niệm thiện
là Phật, một niệm ác là ma, vì vậy ý niệm đầu tiên của chúng ta phải thường
nghĩ điều lành. Ở chốn nhân gian, lùi một bước chính là trí tuệ. Việc gì cũng
ép người khác làm, hoặc không thể thấu hiểu mà cứ thúc ép họ, đôi khi sẽ làm đoạn
duyên – duyên phận sẽ không còn. Vì vậy, người học Phật nên biết cách xoay người
rời đi, lặng lẽ suy ngẫm: Chúng ta làm việc, có duyên thì cứ thuận theo duyên;
không có duyên thì đừng ép buộc người khác. Con người sống trên đời là bởi một
chữ duyên, duyên này có cả thiện duyên và ác duyên. Một niệm chánh, một niệm
tà, kết quả đã khác nhau. Hôm nay một niệm đầu ngay chánh, sự việc có thể sẽ
thành tựu; nếu niệm đầu đó lệch lạc, sự việc có thể sẽ sai lầm. Giữa chánh và
tà chính là ranh giới giữa Phật và ma.
Mỗi chúng ta trong xã hội này đều phải
học cách làm vơi nhẹ đi những chấp trước của mình ở thế gian. Một việc không
buông xuống được, thì cả đời sẽ có rất nhiều việc không buông xuống được. Phải
tìm cách giải thoát, buông bỏ nó. Điều quan trọng nhất là phải thấu hiểu câu:
“Nhân sinh nhược chích như sơ kiến, hà sự thu phong bi họa phiến” (Đời người nếu
mãi như lần đầu gặp gỡ, thì đâu có cảnh gió thu làm buồn lòng chiếc quạt). Thời
xưa, nhiều người bi thương từ trong tâm, tình cảm với người khác chia lìa, lưu
luyến không nỡ, cuối cùng đã gửi gắm nỗi lòng mình vào thơ. Câu thơ này dạy
chúng ta rằng, giữa người với người tốt nhất nên giữ gìn như lúc mới quen, đây
chính là điều mà văn hóa truyền thống Trung Hoa gọi là: “Quân tử chi giao đạm
như thủy” (Tình bạn của người quân tử nhạt như nước). Đôi khi thân thiết quá,
tình cảm sẽ gây ra ràng buộc, vướng bận. Mới gặp một người, chưa để vào tâm,
thì làm gì có chuyện phân biệt, so đo? Khi mới gặp ai đó, quý vị sẽ không có
yêu cầu quá đáng với họ, quý vị luôn nói “rất tốt”. Hãy xem người khác như thể quý
vị mới gặp họ lần đầu, quý vị có thể giữ được một sự tôn trọng, một sự trầm lặng,
một sự thấu hiểu, và cả một sự viên dung. Vì vậy, cảm giác của lần gặp đầu tiên
chính là “chúng ta là bạn tốt, là đạo hữu tốt”, quý vị nhất định sẽ không so đo
tính toán, nhất định sẽ tùy duyên buông xả. Khi quý vị tùy duyên buông xả, tự
thân quý vị sẽ đạt được muôn phần tự tại. Nhiều người hỏi, tại sao người này sống
tự tại, còn người kia lại không? Kỳ thực, tự tại chính là do quý vị tự điều chỉnh
tâm mình. Với những người bạn cũ, những đồng nghiệp, hay những người có tật xấu,
nếu quý vị giữ cái tâm như thể “mình mới gặp họ lần đầu”, quý vị chắc chắn sẽ
không có yêu cầu quá đáng với họ. Đây chính là trí tuệ của Phật Pháp.
Đôi khi chỉ trong một niệm, nghĩ về
quá khứ lại thấy hận, nghĩ về quá khứ lại thấy vui, con người cứ mãi lang thang
giữa bi thương và trí tuệ. Làm sao để không còn phiền não? Làm sao để không còn
sự phân biệt khổ sở? Chính là đừng có tâm phân biệt. Con người chúng ta đáng
thương, chính là vì chúng ta thường có tâm phân biệt. Vì người này từng làm quý
vị tổn thương, vì người kia từng giúp đỡ quý vị, nên khi quý vị thấy họ, tâm
phân biệt khởi lên, và hỷ, nộ, ái, ố sẽ nảy sinh trong lòng. Sư Phụ nói với quý
vị, không còn thị phi yêu ghét, đó chính là buông xả. Quý vị với người này không
có yêu, cũng không có nhiều hận, vậy chẳng phải là quý vị đã buông xả rồi sao?
Giống như những người vội vã lướt qua trên phố, quý vị có yêu hay hận họ không?
Chỉ là lướt qua vai nhau, vậy nên trong tâm quý vị không khởi lên thuận cảnh
hay nghịch cảnh. Khi quý vị thấy người này đáng ghét, nghịch cảnh sẽ xuất hiện;
khi quý vị thấy người này dễ mến, thuận cảnh liền sinh ra. Giống như có người
thích mặt trời, có người thích mặt trăng, quan niệm mỗi người mỗi khác. Khi mặt
trời lên, với họ là sự phát triển; khi mặt trời lặn, họ lại thấy bi thương. Lại
có những người thích cả mặt trời lẫn mặt trăng. Mặt trời lên họ cũng vui, mặt
trăng lên họ cũng thích, không phân biệt, không chấp trước thì sẽ không đi sai
đường. Tự nhiên trong tâm sẽ không có khổ não vì phải lựa chọn được mất. Quý vị
hãy nghĩ xem, khổ não của sự lựa chọn là gì? Nó nằm ngay trong một niệm. Hôm
nay quý vị khởi niệm “Tôi nhất định phải có”, quý vị đã bước vào guồng quay của
đau khổ. Nếu hôm nay quý vị nói “Tôi sao cũng được, có thì có, không có thì
thôi”, quý vị đã bước vào dòng chảy của hạnh phúc. Vì vậy, khổ não đến từ tâm
phân biệt. Đối với người khác phải có tâm bình đẳng, phải đối xử với mọi người
như nhau (nhất thị đồng nhân).
Người học Phật, dù là thuận duyên hay
nghịch duyên, chúng ta phải học cách ung dung như dạo bước trong sân vắng, được
mất hơn thua không màng (sủng nhục bất kinh), đến đi tùy ý. Trên hành trình cuộc
đời, ai cũng muốn vui vẻ, muốn quen biết nhiều người, và lầm tưởng rằng cuộc sống
sẽ mãi như vậy, tình cảm sẽ mãi như vậy – điều này đi ngược lại với giáo lý của
nhà Phật rằng: thế gian này mọi sự đều vô thường, không có gì là tồn tại vĩnh
viễn. Vì vậy, điều quan trọng nhất là nhận biết chính mình, chính là khoảnh khắc
nhận ra lại được chính mình. Trong tâm mỗi người phải có được khoảnh khắc này,
như vậy quý vị mới có thể giác ngộ, mới có thể đi khắp thế gian. Người hiểu
mình, đi đến đâu cũng không thiệt thòi, người khác sẽ tôn trọng họ, vì họ biết
mình nên nói lời gì, làm việc gì, có tư duy ra sao, người như vậy rất dễ được người
khác yêu mến. Còn có những người hoàn toàn không biết mình đang làm gì, không
biết mình là ai, nói thì khoác lác, ăn thì thô thiển, hành vi khác người, lại
còn tự cho rằng “Ta đây hơn người”. Thực ra, những điều đó chỉ để che đậy một
quan niệm trong tâm: “Tôi là như vậy sao? Dù tôi khác người, nhưng tôi nhất định
có lý của mình.” Kỳ thực, đó chính là đang lựa chọn lối tư duy trong định kiến
và chấp trước.
Tư duy của một người là ngay chánh hay
tà, kết quả tất nhiên sẽ khác nhau. Tư duy ngay chánh (chánh tư duy) khiến người
khác tôn trọng; tư duy lệch lạc (tà tư duy), người khác sẽ phản ánh. Quý vị thấy
đó, trong buổi cộng tu của chúng ta, nếu hôm nay quý vị lên chia sẻ đúng lý
đúng Pháp, mọi người đều rất thích nghe. Nhưng có những người lại thêm vào quá
nhiều quan điểm cá nhân, nói những điều lệch lạc, dần dần người khác sẽ nói rằng
người đó khi chia sẻ kinh nghiệm đã có định kiến nghiêm trọng. Một người muốn
ngay chánh, trước hết phải hiểu mình. Không hiểu được mình, làm sao hiểu được
người khác? Tu tâm chính là để quay về với nội tâm của mình. Quý vị hiểu được
chính mình, chẳng phải là vì quý vị muốn thấu hiểu nội tâm của mình hay sao? Phải
buông bỏ rất nhiều dục vọng và niệm đầu để quay về với vô niệm.
Vô niệm là trạng thái tự nhiên, nó là
“Tự nhiên”, không mang theo sự cưỡng cầu, chấp trước và quan niệm “chỉ biết
mình, không màng đến người khác”. Vì vậy, một người có lời nói, hành vi, tư duy
được người khác chấp nhận, đó là một phản ứng tự nhiên mà ai cũng có thể đón nhận.
Giống như một đứa trẻ nói: “Chú ơi, con khát nước quá, con muốn ăn cái này.”
Người ta sẽ nói: “Được con, để chú mua cho.” Sẽ không ai nghi ngờ đứa trẻ này
tham ăn cả, vì lời nói của nó phát ra rất tự nhiên. Một người có bao nhiêu tạp
niệm, sẽ có bấy nhiêu đau khổ. Họ càng nghĩ nhiều: “Làm sao để người khác không
nhận ra mình đang toan tính, mà mình vẫn làm được việc này một cách kín kẽ?”,
nhưng đến khi họ nói ra, người khác đã nhìn thấu, và họ sẽ đau khổ. Khi bị người
khác phát hiện ra mục đích, nhiều người sẽ đau khổ, vì vốn dĩ họ muốn lừa gạt
người khác. Cho nên, học Phật đến cuối cùng, vẫn là phải học được sự tự nhiên.
Văn hóa truyền thống xưa có câu “Đại đạo
tự nhiên”. Thiên đạo, nhân đạo, hay A-tu-la đạo, bản tánh vốn dĩ đều là lương
thiện, đó gọi là thiện đạo. Sư Phụ thường nói với quý vị về ba đường lành (tam
thiện đạo): cõi Trời, cõi A-tu-la, và cõi Người. Cõi Người cũng được tính là
thiện đạo, nhưng là thiện đạo gần với cõi súc sinh nhất. Một người làm việc chỉ
cần hơi sơ sẩy là có thể làm ra những chuyện của loài súc sinh, vì vậy phải hết
sức cẩn thận, vì nó quá gần với cõi súc sinh. Phải thường xuyên không mang tâm
sân hận, vì loài súc sinh rất dễ hận người khác. Quý vị thấy con chó, quý vị đá
nó một cái, nó nhất định sẽ sủa lại, cắn lại, hoặc đuổi theo quý vị. Loài vật
có một bản năng là rất hay oán hận, rất cố chấp và thích tranh đấu. Người học
Phật chúng ta phải học cách không tranh đấu với người khác, phải học cách lương
thiện. Đôi khi, cái tâm của quý vị khiến quý vị nổi sóng, quý vị không muốn
tranh đấu với người này, nhưng họ lại chọc giận khiến quý vị muốn đấu tranh với
họ. Kỳ thực, thích tranh đấu, hung hăng (hảo dũng đấu ngoan), điều này có phần
giống với cõi A-tu-la.
Ở nhân gian, đừng nên chấp trước. “Mưu
tính”, tức là suy tư, hoạch định. Rốt cuộc nên làm thế nào, nên làm việc này
sao cho tốt, làm sao để bản thân không bị bất cứ sự việc hay con người nào làm
cho mê hoặc, điên đảo, đây là điều quan trọng nhất. Dù chúng ta làm gì, đừng
nghĩ rằng “việc này tôi đúng”, “việc kia tôi sai”, như vậy quý vị sẽ rơi vào
vòng thị phi và không thoát ra được. Nếu hôm nay quý vị nhảy ra khỏi vòng thị
phi, thấu hiểu được lòng trắc ẩn và đạo lý từ bi vô hạn, cảm nhận được nỗi đau
của người khác như của chính mình (nhân thương ngã thống), quý vị sẽ thấy: đối
phương dù có cứng rắn với quý vị, đó cũng chỉ là một biểu hiện của sự yếu đuối;
ngược lại, đối phương từ bi nhẫn nhục với quý vị, đó mới là biểu tượng của sự mạnh
mẽ. Thế nhưng, chúng ta lại thường xem lòng từ bi của người khác là sự yếu đuối,
còn lối tư duy cứng rắn của mình lại là sự dũng cảm. Kỳ thực, sự “dũng cảm” đó
sẽ gây ra thêm nhiều tổn thương cho chính bản thân mình mà thôi.