Tập 28 BÁO ỨNG NHƯ HÌNH VỚI BÓNG

 LỜI MỞ ĐẦU

Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:

“Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường. Con xin cảm tạ Bồ Tát”.

 Tập 28

BÁO ỨNG NHƯ HÌNH VỚI BÓNG

(28/03/2020)

Chúng ta học Phật là để lĩnh hội được tinh hoa và thấu hiểu chân lý của đạo Phật.

Sư Phụ đã từng đọc một câu chuyện mà A Nan nghe được trong quyển thứ ba của “Hiền Ngu Kinh”, và thấy rằng câu chuyện này rất truyền cảm hứng cho hàng Phật tử chúng ta. Hôm nay, Sư Phụ sẽ kể cho quý vị nghe câu chuyện này.

Trong phẩm thứ mười sáu của quyển thứ ba “Hiền Ngu Kinh” có chép rằng: Tôi, A Nan, đã tự mình thấy và nghe một việc như thế này. Bấy giờ, Đức Phật đang ở tại Tinh Xá Kỳ Viên (Jetavana), nước Xá Vệ. Sau khi vua Ba Tư Nặc (Pāsenadi) của Vương quốc Xá Vệ băng hà, Thái tử Lưu Ly (Viḍūḍabha) lên ngôi, là một kẻ bạo ngược vô đạo. Hắn hạ lệnh tấn công Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), quê hương của Đức Phật, dòng tộc Thích Ca (Śākya), và tàn sát những người mang họ Thích. Hễ ai mang họ Thích đều bị hắn giết hại. Vì người Thích Ca tộc rất đông, binh lính đã dùng đao kiếm tàn sát vô số người. Chúng còn nghĩ ra một thủ đoạn tàn độc là chôn chân người Thích Ca tộc xuống đất để họ không thể cử động, rồi xua những con voi say (voi bị kích động mất kiểm soát như say rượu) đến giày xéo. Chúng đứng bên cạnh quan sát cảnh voi say tàn sát, dùng những phương cách tàn bạo như vậy để giết hại vô số dân chúng Thích Ca tộc.

Bấy giờ, tại Ca Tỳ La Vệ có nhiều phụ nữ thuộc dòng dõi quý tộc. Chứng kiến cảnh tàn sát dã man đó, lòng họ đau đớn khôn nguôi, không còn muốn quyến luyến cuộc sống thế tục nữa, nên cùng nhau xuất gia, trở thành Tỳ kheo ni. Dân chúng Ca Tỳ La Vệ thấy những người phụ nữ này, hoặc thuộc dòng Thích Ca, hoặc thuộc dòng dõi vương tôn (tức dòng dõi quý phái), ai nấy đều tôn quý, đoan trang, bậc nhất trong nước, vậy mà họ có thể từ bỏ mọi dục lạc thế gian để xuất gia tu đạo, tổng cộng có đến năm trăm người. Toàn thể dân chúng trong nước không ai không cảm thán và tán dương, tranh nhau cúng dường năm trăm vị Tỳ kheo ni này.

Các vị Tỳ kheo ni này bảo nhau: “Chúng ta nay tuy danh nghĩa đã xuất gia, nhưng kinh pháp chưa thâm nhập, pháp dược chưa thấm nhuần, những thói quen tham, sân, si vẫn chưa đoạn trừ. Chúng ta nên cùng nhau đến đạo tràng của Tỳ kheo ni Thâu La Nan Đà (một vị Tỳ kheo ni rất nổi tiếng) để đảnh lễ, thỉnh giáo và lĩnh hội kinh pháp, hy vọng có thể khắc phục và loại bỏ những tật xấu nơi mình.” Nói rồi, họ liền lên đường. Khi đến nơi của Tỳ kheo ni Thâu La Nan Đà, họ đảnh lễ vấn an và cùng trình bày: “Chúng con tuy xuất gia tu hành, nhưng chưa được pháp bảo và cam lồ, chưa thể trừ sạch những tật xấu nơi thân. Kính mong Sư khai thị chỉ dạy, để chúng con được minh ngộ khế nhập (tức đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh).”

Tỳ kheo ni Thâu La Nan Đà thấy họ, lòng nghĩ thầm: “Đây đều là những phụ nữ quý tộc, đúng lúc ta cần họ cúng dường hộ trì. Chi bằng ta dạy họ phạm giới, để ta một mình hưởng dụng y bát này (y bát: nguyên chỉ y cà sa và bình bát của nhà sư Phật giáo truyền lại cho đệ tử, sau này chỉ chung tư tưởng, học thuật, kỹ năng… truyền lại cho đời sau). Như vậy mới thật là an vui sung sướng!” Nghĩ xong, bà liền nói với các Tỳ kheo ni kia: “Các vị đều xuất thân từ gia đình quyền quý, nhà cửa ruộng vườn, bảy thứ báu vật (nhà nào cũng rất giàu, có vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, hổ phách, san hô là bảy báu), lại có voi ngựa, nô tỳ, mọi thứ cần dùng đều không thiếu thốn. Cớ sao phải từ bỏ những thứ đó, lại muốn tuân giữ giới cấm của Phật Đà để làm Tỳ kheo ni? Các vị khổ công cầu đạo tu hành, chi bằng hãy trở về gia đình, vợ chồng con cái, cùng hưởng ái ân, tùy ý bố thí, tích lũy phước đức, ít ra cũng hưởng được vinh hoa phú quý đời này.” Các Tỳ kheo ni nghe những lời đó, hoàn toàn trái ngược với những gì họ tưởng tượng. Vốn đến để cầu Phật pháp, không ngờ bà ta lại nói những lời như vậy, lòng họ vô cùng thất vọng, bao nhiêu khát khao đều tan biến, công sức cũng thành uổng phí. Họ đau lòng khóc nức nở, rồi cả năm trăm người cùng đứng dậy rời đi.

Họ lại tìm đến một vị Tỳ kheo ni khác – nơi Tỳ kheo ni Vi Diệu tu hành, đến đảnh lễ và vấn an đúng pháp. Sau đó, họ mới trình bày: “Chúng con mới xuất gia không lâu, ở nhà đã quen với các việc thế tục, mê muội đã lâu. Nay tuy đã xuất gia, nhưng tâm ý chúng con vẫn còn xao động, có lúc tình dục mãnh liệt, không thể tự mình tháo gỡ. Kính mong Tôn giả xót thương, thuyết pháp cho chúng con, khai thị cội nguồn của nghiệp chướng che lấp này.” Lúc này, Tỳ kheo ni Vi Diệu hỏi họ: “Về nhân quả ba đời, các vị muốn hỏi về đời nào?” Các Tỳ kheo ni đáp: “Quá khứ và vị lai chúng con đều không thấy được, tạm thời không bàn đến. Xin hãy nói về hiện tại. Kính mong Thầy thuyết pháp để giải trừ những nghi hoặc trong lòng chúng con.” Tỳ kheo ni Vi Diệu khai thị: “Việc dâm dục giống như lửa lớn đốt cháy núi rừng, lan rất nhanh, mà tác hại lại càng sâu rộng. Người ta nếu chìm đắm trong dâm dục, tham ái luyến lưu lẫn nhau, thì chẳng qua chỉ là đang hành hạ, làm ô uế lẫn nhau mà thôi. Theo năm tháng, tình dục nam nữ ngày càng sâu nặng, khó lòng cắt đứt. Đến khi lâm chung, khó thoát khỏi quả báo đau khổ trong ba đường ác (chính là Hỏa đồ khổ: địa ngục bị lửa dữ thiêu đốt; Huyết đồ khổ: súc sinh tàn sát lẫn nhau; Đao đồ khổ: ngạ quỷ bị gươm đao bức bách), đời đời kiếp kiếp không có lúc nào ra khỏi. Những người tham luyến gia đình, vì tham đắm tình cảm vợ chồng, ân ái mặn nồng, cùng nhau gầy dựng gia nghiệp, hưởng thụ vinh hoa phú quý, đeo đuổi những hy vọng về hạnh phúc tột bậc của thế gian… tất cả đều do những duyên nghiệp đó trói buộc. Họ phung phí những năm tháng tuổi trẻ quý giá, cho đến khi sinh ly, lão ly, bệnh ly, tử ly, hoặc phạm tội với quan phủ mà phải chịu cảnh tù đày. Đối mặt với sinh ly tử biệt, tình nghĩa vợ chồng càng thêm quyến luyến, ôm nhau khóc lóc thảm thiết, không nỡ rời xa, gan ruột đứt từng đoạn, đau thấu tâm can. Vì quá đau buồn mà ngất xỉu, rồi tỉnh lại, cứ thế giày vò triền miên, đau khổ vô cùng. Quý vị thấy đó, thứ tình cảm gia đình sâu nặng khó dứt bỏ này, đều do vọng tâm vọng tưởng tạo tác, trói buộc mà thành. Sự mê đắm si tình này, thực ra còn đau khổ hơn cả bị giam cầm trong ngục tù, không thể giải thoát, lại càng không được tự tại.”

Vị Tỳ kheo ni này giảng Pháp cho rất nhiều Tỳ kheo ni rằng: “Tôi vốn sinh trưởng trong một gia đình ngoại đạo tu hành, cha tôi có địa vị tôn quý, bậc nhất trong nước. Thuở ấy, có con trai của một nhà tu hành, thông minh trí tuệ, nghe nói tôi dung mạo đoan chính, bèn nhờ người mai mối, dâng lễ vật. Tôi liền thành thân với anh ta, xây dựng gia đình và sinh được một con trai. Vài năm sau, cha mẹ chồng tôi qua đời. Lúc đó, tôi đang mang thai đứa con thứ hai, bèn nói với chồng: ‘Nay em đang có thai, ngày sinh sắp đến. Khi sinh nở sẽ có nhiều thứ ô uế, cũng có thể gặp nguy hiểm. Nên nhân lúc này về thăm cha mẹ em trước.’ Chồng tôi cũng thấy vậy là phải, thế là cả nhà cùng lên đường. Không ngờ, đi được nửa đường, tôi bỗng đau bụng, đành phải nghỉ dưới một gốc cây lớn, chồng tôi thì nằm ngủ ở một góc khác. Nửa đêm, con tôi chào đời, sản dịch cũng theo đó chảy ra. Rắn độc ngửi thấy mùi máu tanh, theo mùi tìm đến, cắn chết chồng tôi. Đêm khuya sinh con, tôi gọi chồng nhiều tiếng mà không thấy trả lời, lòng tôi bồn chồn không biết đã xảy ra chuyện gì. Đến khi trời sáng, tôi gắng gượng dậy, đến nắm tay chồng, mới biết anh ấy đã bị rắn độc cắn chết, thân thể sưng phù, thối rữa, tứ chi như rời ra. Thấy cảnh tượng kinh hoàng đó của chồng, tôi sợ hãi ngất đi. Con trai lớn của tôi thấy cha chết thảm, liền gào khóc. Nghe tiếng con khóc, tôi tỉnh lại, đành phải cho con lớn ngồi lên vai mình để nó bớt sợ hãi, tay thì ẵm đứa con mới sinh, cứ thế vừa đi vừa khóc.”

“Đường đi vắng vẻ nguy hiểm, không một bóng người. Giữa đường gặp một con sông lớn, vừa sâu vừa rộng. Tôi đành để con lớn ở lại, dặn nó ngoan ngoãn chờ bên bờ. Tôi địu đứa nhỏ, cẩn thận lội qua bờ bên kia. Đặt con nhỏ xuống, tôi quay lại đón con lớn. Nào ngờ, con trai từ xa thấy tôi đến, quên lời tôi dặn, chạy xuống nước đón mẹ. Thân hình bé nhỏ làm sao chống nổi dòng nước xiết, con lớn liền bị nước cuốn trôi. Tôi gào khóc đuổi theo, nhưng sức yếu không cứu nổi, đành trơ mắt nhìn con lúc chìm lúc nổi, xa dần. Lúc đó tôi mới sực nhớ đến đứa con nhỏ ở bờ bên kia, liền vội vàng chạy lại. Không ngờ, con nhỏ đã bị sói ăn thịt mất rồi, chỉ còn thấy máu nó vương vãi trên bờ. Tôi lại đau đớn ngất đi, một lúc lâu sau mới từ từ tỉnh lại.”

“Lòng đầy sầu muộn, tôi cứ thế lững thững đi dọc đường. Sau đó, tôi gặp một vị tu hành, là bạn thân của cha tôi. Ông hỏi: ‘Con từ đâu đến? Sao lại tiều tụy đến thế này?’ Tôi kể lại hết những gặp gỡ bi thảm của mình. Nghe xong, vị tu hành đó thương xót tôi thân cô thế cô, cũng không kìm được mà cùng tôi khóc. Tôi hỏi ông: ‘Cha mẹ, láng giềng của con có khỏe không? Họ có bình an không?’ Vị tu hành đáp: ‘Nhà con mới bị cháy rồi, cha mẹ và những người thân khác lớn nhỏ đều bị thiêu chết cả rồi.’ Nghe ông nói vậy, tôi lại ngất đi, rất lâu sau mới tỉnh. Vị tu hành đó thương xót cảnh ngộ của tôi, bèn đưa tôi về nhà, coi như con cái, chu cấp cho tôi mọi thứ cần dùng hằng ngày.”

“Lúc đó, có một vị tu hành khác thấy tôi đoan chính, ngỏ ý muốn cưới tôi làm vợ. Tôi không chịu nổi cảnh cô đơn, cũng mong có chỗ nương tựa, nên đã đồng ý. Kết hôn chưa được bao lâu, tôi lại có thai. Thai kỳ mãn hạn, sắp đến ngày sinh. Hôm đó, chồng tôi đi uống rượu ở nhà bạn, đến chạng vạng tối mới say khướt trở về. Lúc đó, tôi đang chuyển dạ, ở một mình trong phòng. Chồng tôi đập cửa ầm ĩ, la lớn: ‘Mở cửa! Mở cửa!’ Vì đang lúc sinh nở, tôi không thể ra mở cửa. Chồng tôi thấy không ai mở cửa, tức giận vô cùng, liền phá cửa xông vào, đấm đá tôi túi bụi. Tôi nói: ‘Vì em đang sinh, nguy cấp lắm, không thể mở cửa cho anh được.’ Hắn càng tức giận hơn, nhẫn tâm giết chết đứa trẻ sơ sinh, rồi dùng bơ nấu lên, bắt tôi phải ăn. Chao ôi! Thật là đồ cầm thú! Làm sao tôi nuốt nổi?! Tôi không ăn, hắn lại đánh đập tàn nhẫn. Khi tôi nuốt nước mắt, cố gắng ăn thịt con, lòng đau đớn khổ sở đến tột cùng. Tôi tự nghĩ: ‘Lẽ nào phước căn, phước báo của mình đã hết rồi sao? Tại sao mình lại gặp phải người như thế này, lại còn kết làm vợ chồng với hắn?’ Nhân lúc hắn say rượu ngủ say, tôi đã trốn khỏi nhà đó, bắt đầu cuộc đời lang thang.”

“Tôi đến nước Ba La Nại. Một hôm, tôi nghỉ chân dưới một gốc cây bên ngoài thành. Có một người con trai của một vị trưởng giả vừa mới goá vợ, vợ ông ta được chôn cất ở nghĩa địa ngoại thành. Vì thương nhớ người vợ đã mất, ngày nào ông cũng đến bên mộ vợ mà khóc. Hôm đó, ông ra khỏi thành thì gặp tôi, bèn hỏi: ‘Cô là ai? Sao một phụ nữ lại ngồi một mình bên đường thế này?’ Tôi kể lại những cảnh ngộ của mình. Ông lại hỏi: ‘Tôi muốn mời cô cùng vào nghĩa địa xem, cô có bằng lòng không?’ Tôi đồng ý, sau đó chúng tôi lại thành vợ chồng. Ai ngờ, cưới nhau được vài ngày, vị trưởng giả tử đó bỗng lâm bệnh nặng, không thuốc nào chữa khỏi, rồi đột ngột qua đời. Luật pháp nước đó quy định, khi chủ nhà qua đời, lúc chôn cất phải đem theo người mà người đó yêu quý nhất khi còn sống để chôn cùng. Thế là tôi trở thành người bị chôn theo, cùng bị chôn trong huyệt mộ.”

“Có lẽ mệnh tôi chưa tận, tôi đã không chết ngay. Tình cờ có một toán cướp đến đào mộ, chúng đưa tôi ra ngoài. Tên đầu đảng thấy tôi dung mạo đoan chính, liền ép tôi làm áp trại phu nhân. Mấy chục ngày sau, hắn lại đi cướp mộ, bị chủ nhà phát hiện, liền bị chém đầu tại chỗ. Đám thuộc hạ của hắn mang xác hắn về cho tôi, rồi vẫn theo luật nước đó, chôn tôi cùng với hắn. Tôi một mình trong mộ cùng với cái xác. Ba ngày sau, tôi vẫn không chết. Đúng lúc đó, một bầy sói đến bới mộ, định ăn xác chết. Mộ được bới tung, tôi lại thoát ra, lòng vô cùng tự trách: ‘Kiếp trước mình đã tạo nghiệp gì mà chỉ trong mấy chục ngày ngắn ngủi, lại gặp phải bao nhiêu tai ương khủng khiếp đến thế, chết cũng không chết được, lại từ trong mộ sống lại! Đâu là nơi nương tựa của mình? Ai có thể cho mình sống tạm qua ngày đây?’”

“Bỗng tôi nhớ ra, mình từng nghe nói con trưởng của dòng Thích Ca đã xuất gia học đạo, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiệu là ‘Phật’, Ngài thông suốt nhân quả túc mệnh quá khứ vị lai. Sao mình không đến bái kiến Ngài, cầu mong sự chỉ dạy của Ngài, để thân tâm mình có chỗ quy y. Nghĩ vậy rồi, tôi không chút do dự, lập tức lên đường. Tôi một lòng một dạ chỉ muốn đến được Tinh Xá Kỳ Viên, nơi Phật Đà ngự. Khi đến Tinh Xá Kỳ Viên, từ xa tôi đã thấy khí chất tôn quý của Như Lai (tức Phật Đà), nổi bật như hoa quý giữa rừng cây sum suê, lại càng như vầng trăng sáng giữa muôn ngàn vì sao. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng Tam Minh Vô Lậu (Thiên nhãn thông, Túc mệnh thông, Lậu tận thông. Thiên nhãn là biết nhân quả sinh tử vị lai, Túc mệnh là biết nhân quả sinh tử quá khứ, Lậu tận là biết phiền não hiện tại) biết được cơ duyên độ tôi đã đến, liền dẫn chúng Tăng ra đón. Lúc đó, tôi thân thể trần trụi, xấu hổ vô cùng, đành phải khom người ngồi xuống đất, lấy tay che ngực, hổ thẹn không dám ngẩng đầu. Phật Đà bảo Tôn giả A Nan: ‘A Nan, ông hãy lấy y phục cho người phụ nữ này che thân.’ Tôi được y phục che thân, bấy giờ mới dám đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ Đức Thế Tôn một cách cung kính nhất, rồi lần lượt kể lại những tai ương nghiệp chướng mà mình đã phải chịu, kính mong Đức Thế Tôn từ bi thương xót, cho phép tôi được xuất gia học đạo.”

“Phật liền bảo A Nan: ‘A Nan, hãy đưa người phụ nữ này giao cho Kiều Đàm Di (tức Gotamī, Tỳ kheo ni Đại Ái Đạo, là di mẫu của Phật, vị Tỳ kheo ni đầu tiên).’ Tỳ kheo ni Kiều Đàm Di liền dạy tôi giới pháp. Sau đó, tôi quy y dưới chân vị Tỳ kheo ni này, trở thành một Tỳ kheo ni. Vị Tỳ kheo ni này giảng giải cho tôi yếu chỉ của Tứ Diệu Đế ‘Khổ, Tập, Diệt, Đạo’, và chỉ bày đạo lý Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã. Tôi chưa từng được nghe pháp nghĩa vi diệu như vậy, liền thu nhiếp tâm thần, chế tâm nhất xứ (giữ tâm an trụ một chỗ), cuối cùng chứng đạo. Tôi có thể thông suốt quá khứ vị lai, bấy giờ mới biết những đau khổ không thể tưởng tượng nổi mà tôi đã trải qua trong đời này, đều là ác quả do nghiệp đời trước gây ra, nhân quả rõ ràng, không sai một mảy may!”

Các Tỳ kheo ni nghe vậy vô cùng kinh hãi, năm trăm vị Tỳ kheo ni lại hỏi: “Thưa Sư Phụ, kiếp trước Thầy đã phạm lỗi lầm gì mà kiếp này phải chịu nhiều đau khổ đến vậy? Kính mong Thầy từ bi kể lại cho chúng con nghe.”

Tỳ kheo ni Vi Diệu đáp: “Nhân quả trong đó rất sâu xa, các vị hãy chuyên tâm lắng nghe. Đời trước, có một vị trưởng giả giàu có vô kể, nhưng không may không có con. Ông cưới thêm một người vợ lẽ, tuy là con nhà nghèo, nhưng dung mạo cũng đoan chính tuyệt trần. Vị trưởng giả rất yêu chiều người vợ lẽ này. Không lâu sau, nàng có tin vui, đủ mười tháng thì sinh được một bé trai. Vợ chồng kính trọng nhau, hết mực yêu thương đứa con, càng nhìn càng thấy đáng yêu, không hề biết chán. Người vợ cả thấy vậy, lòng nghĩ thầm: ‘Ta tuy xuất thân quyền quý, nhưng chỉ hận cái bụng này không biết điều, không sinh được mụn con nào để kế thừa gia sản. Đợi đứa trẻ này lớn lên, đương nhiên nó sẽ trở thành chủ nhân trong nhà, mọi ruộng vườn tài sản, vật quý trong nhà đều sẽ thuộc về nó. Ta cả đời khổ cực vun vén tài sản, đến cuối cùng lại không phải của mình, cũng không được tự do sử dụng.’ ‘Nộ tùng tâm trung khởi, ác hướng đảm biên sinh’ (tức giận từ tâm mà ra, điều ác từ mật mà đến). Lòng bà ta nghĩ: ‘Chi bằng sớm giết đứa trẻ này đi, để trừ hậu họa!’ Quyết ý rồi, bà ta lấy một cây kim sắt, đâm thẳng vào thóp thở trên đỉnh đầu đứa trẻ (phần mềm phía trước trên đỉnh đầu trẻ sơ sinh). Cây kim lút vào trong, không ai phát hiện. Chỉ thấy đứa trẻ ngày nào cũng khóc lóc, thân thể ngày càng yếu ớt, gầy gò, không ai tìm ra nguyên nhân. Vài ngày sau, đứa trẻ chết. Người vợ lẽ vô cùng đau đớn, ngất đi rồi tỉnh lại, nghi ngờ người vợ cả vì ghen ghét mà giết con mình, liền chất vấn: ‘Đồ đàn bà độc ác, ngươi vì ghen tức mà giết con trai yêu quý của ta!’ Người vợ cả lúc đó liền thề độc: ‘Nếu là ta giết con trai ngươi, thì nguyện cho đời đời kiếp kiếp, chồng ta lấy phải đều bị rắn độc cắn chết, con cái sinh ra hoặc bị nước cuốn trôi hoặc bị sói ăn thịt, bản thân ta bị chôn sống, phải ăn thịt chính con mình, cha mẹ người thân lớn nhỏ đều bị lửa thiêu chết. Đồ đàn bà tiện nhân, sao dám vu khống ta! Sao dám hãm hại ta!’ Thời đó, ai thề càng nhiều thì người khác càng tin, vì ai cũng tin vào nhân quả báo ứng. Nhưng bà ta cứ tùy tiện thề thốt, không tin rằng những quả báo đó sẽ thực sự xảy đến với mình. Kết quả là, những lời thề độc kiếp trước, kiếp này đều ứng nghiệm cả, tất cả đều báo ứng lên chính thân bà ta, không ai có thể chịu thay. Quý vị có biết không? Người vợ cả khi đó chính là ta của đời này.”

Các Tỳ kheo ni ai nấy đều sững sờ, họ lại hỏi: “Thưa Sư Phụ, lại do nhân duyên nào mà Thầy được tận mắt thấy thánh nhan Như Lai, được Ngài dẫn chúng Tăng ra đón, khiến Thầy tu hành chứng đạo, thoát khỏi vòng sinh tử khổ đau?”

Tỳ kheo ni Vi Diệu đáp: “Xưa kia, tại nước Ba La Nại có một ngọn núi lớn tên là ‘Tiên Sơn’, là nơi địa linh nhân kiệt (đất thiêng hun đúc người tài). Trong núi thường có các vị Bích Chi Phật (còn gọi là Độc Giác Phật, Duyên Giác Phật), các vị Thanh Văn và các nhà tu hành ngoại đạo thần tiên. Thuở ấy, có một vị Duyên Giác Thánh giả vào thành khất thực. Trong thành có một bà chủ nhà của một gia đình trưởng giả, thấy vị Thánh giả, lòng vô cùng hoan hỷ, thành tâm cúng dường. Vị Duyên Giác Thánh giả cảm ứng được lòng thành của người vợ vị trưởng giả, dùng bữa xong liền thị hiện thần thông, bay lên hư không, thân đồng thời xuất ra nước và lửa, lại có thể ngồi nằm giữa không trung. Người vợ vị trưởng giả thấy vậy, liền phát nguyện: ‘Chỉ nguyện đời sau con tu hành được đạo, cũng có công đức và sự thụ hưởng như vậy.’ Người vợ vị trưởng giả khi đó chính là ta của đời này. Vì ta thành tâm cúng dường phát nguyện, nên đời này mới có cơ duyên được gặp Như Lai, tâm được khai mở, chứng đắc quả vị A La Hán. Nhưng, ngày nay tuy ta đã chứng A La Hán, hằng ngày vẫn phải chịu dư báo của nghiệp ác đời trước, giống như có một cây kim sắt nung đỏ đâm từ đỉnh đầu xuống, xuyên qua lòng bàn chân, ngày đêm chịu sự đau đớn giày vò như vậy, không lúc nào dứt. Tai ương và phước báo đều là như thế, đều là tự mình tạo nghiệp, tự mình chịu báo. Trước khi quả báo chưa đến, những hạt giống nghiệp này sẽ không tự nhiên mà hư hoại hay mất đi.”

Bấy giờ, năm trăm vị Tỳ kheo ni thuộc dòng dõi quý tộc nghe được nhân duyên không thể nghĩ bàn như vậy, ai nấy đều kinh hoàng, quán sát sâu sắc bản chất của dâm dục, thấy nó như ngọn lửa dữ thiêu đốt tất cả. Đối với sự tham ái dục vọng, họ không còn khởi lên một niệm nào nữa. Họ cũng nhận ra rằng, cái khổ của đời sống tại gia còn hơn cả sự trói buộc của ngục tù. Những dơ bẩn, phiền não trong tâm thức, nhất định phải tẩy sạch. Trong khoảnh khắc, họ tiến vào tâm vị quyết định của nguyện lực, chứng đắc đạo quả A La Hán. Họ cùng nhau đến trước Tỳ kheo ni Vi Diệu bạch rằng: “Vì chúng con đã từ lâu tham đắm cảm giác dâm dục, chìm trong ái ân không thể tự thoát ra. Hôm nay may mắn được Tôn giả từ bi khai thị, giúp chúng con thoát khỏi sinh tử vô minh, đạt đến bờ giải thoát.”

Phật Đà biết được việc này, liền tán thán: “Việc làm của Tỳ kheo ni Vi Diệu mới thật là điều khiến người ta xứng tâm vừa ý! Là một người tu hành, có thể dùng chính kinh nghiệm của mình để phát lồ sám hối và làm pháp thí, rồi lại dùng đó để giáo hóa những người khác có chí tu hành, thật có thể gọi là chân Phật tử!” Tại Tinh Xá Kỳ Viên, những người đến thỉnh pháp nghe được câu chuyện tốt đẹp này và lời tán thán của Phật Đà, ai nấy đều hoan hỷ vui mừng, cung kính tin nhận và phụng hành.

Điều này cho chúng ta biết rằng, người học Phật chúng ta, dù trong nghịch cảnh hay thuận cảnh, đều hành động theo nghiệp. Vì vậy, khi gặp khổ đau, phải nghĩ rằng đó chắc chắn là do nghiệp chướng đời trước của mình tạo ra; khi được hưởng thụ, cũng là do sự bố thí đời trước của mình mà có. Cho nên, cần phải tiêu trừ nghiệp chướng. Tiêu trừ nghiệp chướng mới có thể tăng trưởng phước huệ; tăng trưởng phước huệ thì quý vị mới có được trợ duyên. Nếu một người là người quang minh, thì sẽ quang minh như bầu trời, dù gặp bao nhiêu gian nan khổ cực trên đời, họ đều có thể vượt qua. Mong rằng qua câu chuyện này, Phật tử chúng ta có thể hiểu được rằng, một người tu hành chân chính phải biết nhân hiểu quả, có thể tiêu trừ nghiệp chướng của mình, không nên chấp trước vào những đau khổ hiện tại mà tạo thêm vô biên ác nghiệp, để rồi phải gánh chịu vô tận báo ứng.

“Bạch Thoại Phật Pháp” hôm nay giảng cho quý vị đến đây xin tạm dừng. Cảm ơn quý vị.

Việt dịch chú thích tham khảo:

Tập 28 Bạch thoại Phật Pháp đến đây là kết thúc. Trong quá trình biên dịch nếu có sai sót, hoan nghênh và chân thành cám ơn tất cả mọi người góp ý. Xin cám ơn mọi người đã cùng đồng hành.

>> Tập 29

Mới hơn Cũ hơn