Tập 66 - PHẬT TÁNH BÌNH ĐẲNG VÔ NHỊ
Sư phụ Lư Quân Hoành giảng giải Bạch Thoại Phật Pháp ngày 13/05/2020
Được rồi, hôm nay chúng ta tiếp tục với «Bạch Thoại Phật Pháp».
Trước hết, khi một người suy nghĩ về một vấn đề, nếu cố gắng nghĩ theo hướng tích cực, hướng tốt đẹp, thì sẽ tràn ngập pháp hỷ. Nỗi khổ và phiền muộn của nhiều người là do trong tâm có quá nhiều năng lượng tiêu cực. Khi năng lượng tiêu cực tích tụ, họ sẽ có xu hướng suy nghĩ các vấn đề theo chiều hướng xấu, càng nghĩ càng sợ hãi, càng nghĩ càng lo âu. Ngược lại, khi suy nghĩ tích cực, nhiều việc sẽ trở nên vui vẻ, vô lo, không còn sầu muộn. Vì vậy, đây là một phương pháp vô cùng quan trọng để người học Phật thấu hiểu sự vật.
Bất cứ ai cũng cần phải hiểu về luân hồi. Một sự việc tốt hay xấu đều sẽ luân hồi: việc tốt gặp phải điều không may, rồi sẽ dần luân hồi trở lại thành tốt; việc ác, việc không tốt luân hồi rồi cũng sẽ dần trở thành tốt.
Từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của con người, cho đến những gì quý vị nghe thấy, ngửi thấy, thực chất tất cả đều là một dạng luân hồi, quý vị không nên xem chúng là quá thật. Một nỗi đau nào đó thời thơ ấu sở dĩ còn dai dẳng là vì chúng ta đã xem nó là quá thật, và vì thế chúng ta bị kẹt trong luân hồi. Bồ Tát dạy chúng ta rằng, chỉ khi thấy được Phật tánh thì con người mới thoát khỏi luân hồi. Điều đó có nghĩa là, một người chỉ khi thực sự hiểu Phật tánh, hiểu Phật lý, muốn chấm dứt luân hồi thì bắt buộc phải khai ngộ, phải chứng đạo. Sư phụ nói với quý vị, một người bước đi trên một con đường, quý vị có nghĩ rằng mình có thể đi mãi không? Vâng, phải kiên định tiến về phía trước. Nhưng phương hướng thì sao? Nếu phương hướng sai, quý vị vẫn đang đi trong luân hồi. Nếu phương hướng đúng, quý vị sẽ thoát ra khỏi vũng lầy của cuộc đời mình, sẽ dần dần khai ngộ, và hiểu rằng mình không thể tiếp tục mê hoặc điên đảo trong thế giới này nữa. Phải bước ra khỏi con đường của chính mình, phải thấy được Phật tánh, phải hiểu rằng thế giới này tất cả đều là khổ, không, vô thường, không có gì là vĩnh cửu. Cho nên, có được cũng chính là mất đi, mất đi cũng chính là tạm thời sở hữu.
Người có Phật pháp trong tâm thì có thể phá mê khai ngộ. Vì trong tâm chúng ta vẫn còn mê hoặc, nên mới có vọng tưởng, mới có chấp trước. Khi một người nghĩ không thông một việc gì đó, thực ra họ đang ở trong chấp trước, mà người chấp trước thì chắc chắn sẽ luân hồi. Vì vậy, hy vọng quý vị phải hiểu rằng, cần phải chuyển hóa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thành Phật tánh. Những gì mắt thấy, mũi ngửi, tai nghe v.v... đều chuyển thành Phật tánh, thành chánh tín chánh niệm: “Tôi không nghe bừa, không nhìn bừa, không ngửi bừa”. Ý niệm được hình thành từ các khái niệm trong tư duy của chúng ta, vì vậy ý niệm là vô cùng quan trọng, nghĩa là ý niệm của bất kỳ ai cũng phải là ý niệm giác ngộ. Quý vị có ý niệm giác ngộ thì chánh tín của quý vị bắt đầu; quý vị có ý niệm giác ngộ thì chánh tri chánh kiến của quý vị bắt đầu. Một người có chánh tri chánh kiến, lời nói ra đều như lời Phật. Mỗi chúng ta muốn thành Phật, trong tâm phải có Phật, thì mới có thể nói ra, làm ra và tư duy ra Phật tánh, và quý vị chắc chắn sẽ rời xa luân hồi. Ở nhân gian, chưa nói đến đại luân hồi, mà tiểu luân hồi cũng không ngừng diễn ra – xem nhẹ một việc gì đó, rồi lại phạm sai lầm. Trong cuộc đời từ nhỏ đến lớn, chúng ta đã luân hồi bao nhiêu chuyện? Chúng ta nói phải hiếu thảo với cha mẹ, rồi cuối cùng lại quên; nói rằng dịp lễ sẽ làm gì đó cho người nhà, rồi lại quên; nói rằng người khác đối xử tốt với mình, mình phải cảm ơn, báo đáp, rồi cuối cùng cũng quên. Tất cả những điều đó đều là ở trong luân hồi.
Phật duyên chúng ta gieo trồng ở thế gian chính là cái nhân để chúng ta không luân hồi, từ đó mới nhận được quả không luân hồi. Nhiều người rất đáng thương, không gieo trồng Phật duyên, mà lại gieo nhân quả của thế gian, tức là nhân duyên, mà nhân duyên sẽ dẫn đến quả báo không tốt. Phải hiểu rằng Bồ Tát là người thầy của tâm linh chúng ta. Dạy dỗ chúng ta, chi phối tâm linh chúng ta, đó chính là Bồ Tát, là đạo sư của chúng ta. Vì vậy, tâm chúng ta nghĩ gì, phải nghĩ giống như Phật Bồ Tát; chúng ta làm gì, phải làm giống như Bồ Tát. Hãy tưởng tượng sự tự tại của tâm mình, bởi vì chỉ khi nhất tâm nhất ý với Phật, quý vị mới có thể “nhậm vận” tâm linh của mình. “Nhậm vận” nghĩa là quý vị có thể hoàn toàn tự tại, tự chủ tâm linh của mình, khi đó lương tâm, lòng từ bi, tâm vô ngã lợi tha của quý vị sẽ hiển lộ. Vì vậy, hãy an trụ nội tâm của mình, không để nó luân hồi, thì quý vị sẽ tiến vào con đường Niết Bàn vĩnh hằng. Nhiều người hỏi, làm sao để vào được đạo Niết Bàn? Phải an trụ nội tâm của mình, không để nó khởi tham, sân, si, mạn, nghi.
Đức Phật dạy chúng ta rằng “chúng sinh đều có Phật tánh”, chỉ có giác ngộ cuộc đời, chỉ có rời xa những chướng ngại phiền não của thế gian. Phải rời xa tất cả các chướng ngại về sở tri (những gì mình biết). Cảm thấy mình cái gì cũng biết, cái gì cũng hiểu, thì sẽ sinh ra chướng ngại, sinh ra chấp trước. Tại sao chúng ta thường khuyên người khác, hiểu rồi cũng phải buông, không hiểu càng phải buông? Hiểu rồi thực ra có nghĩa là quý vị vẫn còn rất nhiều điều chưa hiểu; không hiểu có nghĩa là quý vị cần phải học hỏi thêm, sẽ học được nhiều điều mà bậc trí giả hiểu. Nếu cảm thấy “tôi đã biết nhiều rồi”, thì chướng ngại của quý vị bắt đầu khởi sinh. Tại sao phải khiêm tốn? Tại sao cần trí tuệ để tiêu trừ nghiệp lực, nghiệp chướng? Quý vị thử nghĩ xem, một người có nghiệp chướng, nếu không có trí tuệ thì không thể tiêu trừ được; họ phải có trí tuệ mới có thể tiêu nghiệp. Bất kỳ ai rời xa trí tuệ chính là rời xa Bát Nhã; rời xa trí tuệ sẽ trở nên ngày càng ngu si.
Phải hiểu rằng chúng ta và Phật tánh là bình đẳng vô nhị, bởi vì sâu thẳm trong tâm chúng ta có Phật tánh, Phật ở ngay trong tâm chúng ta, chúng ta có thể vượt qua mọi khổ nạn ở nhân gian. Vì tâm chúng ta bình đẳng vô nhị, nên chúng ta chính là Phật, Phật chính là quý vị. Quý vị phải dùng tâm thái này mới có thể thành Phật ở nhân gian. Đừng cho rằng Phật ở xa chúng ta, thực ra chỉ cần tâm quý vị giống Phật, quý vị chính là Phật ở thế gian. Phải có niềm tin, phải có sức tinh tấn. Hiện nay chúng ta dùng Pháp Môn Tâm Linh để hóa giải, tiêu trừ nghiệp chướng và linh tính, dùng diệu pháp trí tuệ để chuyển hóa nhân quả nghiệp lực. Chẳng phải chúng ta đang làm như vậy sao? Niệm kinh để tiêu trừ nghiệp chướng không tốt của mình. Rất nhiều nợ nần từ kiếp trước, chúng ta đang dần dần thông qua niệm kinh, hứa nguyện, phóng sinh để tiêu trừ nghiệp chướng quá khứ của bản thân, đó chính là chuyển hóa nhân quả nghiệp lực, là đang thay đổi vận mệnh của chính chúng ta.
Hiểu Phật pháp sẽ biết, có sinh ắt có tử, mọi danh lợi đều là hư ảo. Danh vọng có mất đi không? Có. Lợi lộc có mất đi không? Có. Tất cả đều như mộng, huyễn, bọt, bóng. Hy vọng quý vị hiểu được những hiện tượng tự nhiên của cuộc sống thế gian, những hiện tượng tự nhiên đó chính là Lục đạo luân hồi. Vì vậy, không muốn luân hồi thì phải hiểu rõ sinh tử vô thường. Phải hiểu rằng tiền tài, danh lợi ở nhân gian không thể giải quyết được vấn đề sinh tử, chỉ có đi sâu vào Phật pháp để tìm tòi, lý giải, và khai ngộ. Vô thường là một đạo lý tự nhiên, thế giới này không có gì là trường cửu, hiểu được điều này là có được trí tuệ. Khi quý vị dùng trí tuệ để giải quyết phiền não thế gian, quý vị sẽ sở hữu Bát Nhã.
Phải hiểu về “vô sở đắc” (không có gì để đạt được), vì dù quý vị có tạo ra bao nhiêu danh tiếng, cuối cùng cũng là tay trắng – vô sở đắc; dù có được bao nhiêu lợi ích, cuối cùng cũng là vô sở đắc. Tất cả đều không phải của quý vị, quý vị chỉ đang giữ hộ người khác, vì khi quý vị ra đi, mọi thứ đều trở về hư không, mọi thứ đều thành của người khác. Sư phụ thường ví dụ cho quý vị, nếu ngôi nhà này là của quý vị, quý vị vừa ra đi, ngôi nhà đã đổi chủ. Mọi thứ đều vô thường, cho nên xem nhẹ danh lợi mới có thể tăng trưởng trí tuệ, mới có thể rời xa chướng ngại phiền não. Mục đích của giải thoát sinh tử là để được đại tự tại. Vì vậy, người giác ngộ sở hữu đại tự tại, người giác ngộ hiểu rằng vạn vật không sinh không diệt; cái sinh ra rồi sẽ diệt đi, cái diệt đi rồi sẽ lại sinh ra. Cho nên, Phật pháp đã lý giải một cách trí tuệ điều này thành “bất sinh bất diệt”. Mọi người đều biết trong «Tâm Kinh» có câu “bất cấu bất tịnh” (không nhơ không sạch), bất sinh bất tử, chính là như vậy.
Ở nhân gian, chúng ta phải dừng việc ác, không được làm điều ác. Người không làm điều ác, thì bản tánh, tự tánh, Phật tánh của họ sẽ hiển lộ. Người thường xuyên mắng chửi, đối xử không tốt với người khác, hay giở trò sau lưng, hãm hại người khác, thì trong tâm họ vô cùng dơ bẩn, làm sao có được tâm thanh tịnh vô ngại? Sư phụ muốn quý vị bộc lộ ra bản tánh và lương tâm của mình, nhìn thấu cuộc đời, mới có thể thực sự hiểu được Phật tánh. Một người lương thiện ngày ngày sống trong đại tự tại; một người u tối ngày ngày sống trong lo sợ. Vì vậy, người học Phật có thể hưởng thụ đại tự tại và trí tuệ của nhân gian, còn người nghĩ không thông thì đã rời xa trí tuệ và Bát Nhã của chính mình. Chúng ta phải hiểu rằng, vạn pháp duy tâm tạo.
Có người hỏi Sư phụ, trong giới Phật pháp thường nói “đại bi vô lệ, đại ngộ vô ngôn, đại tiếu vô thanh”, nghĩa là gì? Sư phụ nói với quý vị, “đại bi vô lệ” (lòng bi lớn không có nước mắt), quý vị hãy nghĩ xem, từ bi là lòng từ bi vô tận, là lòng “từ” và lòng “bi mẫn”, cho nên nó là vô tận, không phải là một loại tình cảm của con người. Nước mắt của con người là sự biểu lộ của tình cảm, còn từ bi là ở trong nội tâm. Vì vậy, người thực sự đại từ đại bi không phải là người rơi lệ, mà là người cảm nhận nỗi đau và thương tổn của người khác từ sâu trong tâm mình, cho nên gọi là “đại bi vô lệ”.
Có người hỏi câu thứ hai, “đại ngộ vô ngôn” (Đại ngộ không có lời nói). Đại ngộ, tại sao sau khi triệt ngộ rồi lại không nói nữa? Quý vị xem, có rất nhiều vị pháp sư, dù quý vị hỏi họ điều gì, họ cũng chỉ đáp “A Di Đà Phật”, bởi vì ở nhân gian không có thị phi, họ đã không rơi vào vòng thị phi, họ đã rời xa thị phi của thế gian. Đại ngộ là khai mở đại trí tuệ, và trí tuệ này không thể dùng ngôn ngữ để biểu đạt. Người thực sự khai ngộ không thể dùng lời nói để giải thích, cho nên họ không nói nữa, đó gọi là “đại ngộ vô ngôn”.
Câu cuối cùng, “đại tiếu vô thanh” (cười lớn không có tiếng). “Đại tiếu”, thực ra là một loại cảm xúc trong thất tình lục dục của con người, “Vui quá, ha ha ha”, cười lớn, đó là một tâm trạng vui mừng của thế gian. Còn niềm hoan hỷ, niềm vui nội tâm của Bồ Tát, khi Bồ Tát thấy một người được cứu độ, thấy một nghiệp chướng của quý vị được tiêu trừ, giúp quý vị lìa khổ được vui, thì làm sao Ngài có thể dùng tiếng cười để biểu đạt được niềm vui trong tâm ấy? Cho nên mới nói “đại tiếu vô thanh”. Quý vị hãy nghĩ xem có phải vậy không? Một người mẹ, để con mình thi đạt kết quả tốt, đã ngày đêm thức khuya dậy sớm nấu ăn cho con, tạo cho con một môi trường yên tĩnh để học hành, ngày ngày chờ đợi, qua suốt bốn mùa. Đến kỳ thi đại học, khi người con trở về và nói: “Mẹ ơi, con đậu rồi!”, trong lúc đứa con vui mừng cười lớn, người mẹ không cười theo, mà lại rơi nước mắt. Bởi vì tình cảm đó đến từ nội tâm, đó là một loại từ bi.