Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:
“Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường. Con xin cảm tạ Bồ Tát”.
Chúng con xin cám ơn Sư Phụ Lư Quân Hoành đã khai thị bạch thoại Phật Pháp giúp chúng con khai mở trí tuệ, phá trừ mê chướng. Cầu mong Tam Bảo mãi trường tồn, quảng đại phổ độ chúng sinh trên toàn các cõi hư không giới.
Tập 62
HIỂU RÕ TỰ TÁNH ĐỂ GIÁC NGỘ TỪ TRONG BỔN TÁNH
(06/05/2020)
Vì quý vị đối với một sự việc nào đó không hiểu rõ nên khiến quý vị sinh ra vô minh, vô minh sẽ dẫn đến vọng tưởng. “Tôi không hiểu, tại sao cậu ấy lại giỏi hơn tôi?” “Tôi không hiểu, tại sao cậu ấy tồi tệ như vậy, Sư phụ vẫn đối xử tốt với cậu ấy?” Vậy quý vị có biết công lực của cậu ấy ở kiếp trước không? Quý vị có biết kiếp trước cậu ấy từ đâu đến không? Cậu ấy có phước báo của mình, chỉ là phước báo đã dùng cạn nên không còn nữa. Vậy nên đừng dùng vô minh của chính mình để tạo ra ảo tưởng cho riêng mình. Chúng Sinh Trược chính là: Hết thảy chúng sanh trong xã hội này, trên thế giới này, bởi vì sinh mệnh và linh hồn của chúng ta đã bị ô nhiễm, chúng sinh đều đã bị ô nhiễm rất nhiều, vì vậy tại sao những điều mà mọi người đều nói là tốt lại không hẳn là tốt? Bởi vì mọi người trong cõi người này đều đã bị ô nhiễm.
Tiếp theo Sư Phụ sẽ nói với mọi người về trược thứ năm đó là Mạng Trược, đó là ô trược của cuộc đời. Mọi người nghĩ mà xem, trong lòng lúc nào cũng trần ngập tà niệm, nhìn người khác theo cách sai lệch. Làm người nhưng lại cư xử giống như là ma quỷ, lén lén lút lút, mánh khóe, hãm hại người khác, không nói lời thật lòng. Phi chánh mạng, tức là không phải Chánh mạng. Phi chánh mạng, nghĩa là cuộc đời quý vị nếu không sống một cách chân chính thì sẽ vẩn đục, ô trược.
Nếu cuộc sống của một người không tốt, có nghĩa là cuộc sống của người đó tương đối trược, trược có nghĩa là ô trược (đen tối dơ bẩn). Vì vậy, nhiều người số mệnh của họ càng không tốt thì càng muốn tìm cách làm tổn thương người khác, dùng cái lợi ích mà mình có để đoạt được nhiều lợi ích hơn. Vậy nên, nếu đã không được sinh ra với Chánh mạng, mà còn không sống một cuộc đời chân chính, thì sẽ không thể đạt được Chánh mạng của Bát Chánh Đạo. Vì nếu quý vị làm tốt Bát Chánh Đạo này thì kết quả sẽ là có Chánh mạng.
Người mà có Chánh mạng sẽ lìa xa Tà mạng. Rất nhiều người có tà mạng, tức là lúc nào cũng đặt người khác vào thế bất lợi, làm việc gì cũng đều là để đem lại lợi ích cho chính mình, không làm những việc có lợi cho người khác, đó là ích kỷ tự lợi. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, nghĩa là không thuận theo bản chất tự nhiên của mình. Bởi vì bản chất của chúng ta đều là thiện, đều bao dung người khác, đều nên giúp đỡ người khác. Còn những người này khi sống ở thế gian, cả ngày giống như kẻ trộm, trộm đồ của người khác, ăn cắp lòng tốt của người khác, lừa gạt tiền của người khác và làm những việc không tốt.
Vì vậy mà nói, trong những người học Phật chúng ta, có người nói rất hay, tụng kinh rất giỏi, mở miệng ra là nói về đạo lý Phật học, Sư phụ nói những người như vậy gọi là “Phật để ở ngoài miệng”, nghĩa là miệng nói về đạo Phật rất hay, lúc nào cũng nói về Phật pháp. Vậy nên, có rất nhiều Thiền ngữ mà quý vị cần phải thực hành thực tế. Sư phụ đã giảng cho mọi người rất nhiều thiền ngữ – ngôn ngữ thiền định, có rất nhiều người trên phương diện lý trí thì đã biết, nhưng lại không thể thực hiện một cách trọn vẹn. Quý vị Hiểu đạo lý, có thể nói về nó một cách nhất quán, học thức rất cao và có lý luận cao, nhưng quý vị có Tánh trung tương tri không? Từ trong bổn tánh quý vị có thực sự hiểu nó không? Không chỉ là hiểu biết ở cái vỏ bên ngoài, mà còn phải là sự hiểu biết từ trong bổn tánh, đó được gọi là Tánh trung tương tri. Chỉ hiểu biết một cách lý trí thôi chưa đủ, quý vị phải hiểu rõ từ trong bản chất và phải thực sự hiểu về nó.
Sau khi học Phật, biết nhân hiểu quả và hiểu được rằng cho dù có chuyện gì cũng đừng để bản thân tức giận. Lúc tức giận chính là nghiệp báo đến. Có rất nhiều người suốt ngày phải chịu nghiệp báo, tại sao vậy? Khi họ tức giận, toàn thân mất cân bằng, hệ thống miễn dịch chịu sự tổn thương và tổn hại, họ còn cảm thấy bản thân có lý và khóc lóc, la hét. Thời gian lâu dần nghiệp báo bắt đầu xuất hiện.
Cũng còn có nhiều người thao thao bất tuyệt “Tôi buông bỏ rồi, tôi…”, nhưng lại không sẵn lòng thừa nhận khuyết điểm và sai lầm của mình mà chỉ biết lý luận suông.
Có một lão hòa thượng gặp một vị tiểu hòa thượng rất giỏi nói chuyện và nói rất nhiều giáo lý đạo Phật. Lão hòa thượng không nói chuyện với cậu ta, mà bất ngờ dùng thước đánh vào đầu cậu ta, khiến cậu ta rất đau. Tiểu hòa thượng liền kêu lên: “Ôi sư phụ, sao thầy đánh con?” Vị sư phụ này đáp: “Không phải cậu nói cậu trống rỗng rồi sao? Chẳng phải cậu nói cậu đã hoàn toàn trống rỗng rồi sao?”
Khuyên người khác thì rất dễ, nếu cậu thực sự trống rỗng, hẳn là ngay cả cảm giác này cũng không có, bằng không điều đó có nghĩa là cậu vẫn chưa trống rỗng thực sự, mà vẫn đang trong quá trình Ngộ Không và Khai ngộ. Tánh trung tương tri, dụng trung tương bối {Hiểu rõ tự tánh nhưng hành động trái ngược}. Đối với Phật tánh của mình, quý vị có thể thấu hiểu, có thể hiểu rõ, có thể lý giải được nó. Nhưng khi quý vị sử dụng nó lại mâu thuẫn và trái ngược với nhau. Khi cần dùng đến, khi mình thật sự muốn học Phật, muốn lấy Phật lý để thay đổi bản thân thì hoàn toàn không dùng được. Có người lúc nào nói chuyện cũng đều là Phật ngôn, ngồi ở bên cạnh, mặt đầy Phật khí, toàn thân thì giống tướng Phật, khi thấy người ta thì hai tay chắp lại và nói toàn lời Phật, khiến người khác cũng cảm thấy rằng dường như họ còn thật hơn cả chân Phật. Nếu muốn biết họ có phải là người tu chân chính hay không, thì cứ đợi đến khi đụng phải lợi ích trước mắt, khi đó họ sẽ trở thành “Tánh trung tương tri, dụng trung tương bối”.
Phật nói: “Đắc nguyên minh giác, vô sinh diệt tính, vi nhân địa tâm”. Đây chính là nói cho chúng ta biết rằng, quý vị phải đạt được Nguyên Minh Giác. Nguyên Minh Giác là gì? Nguyên chính là nguyên thủy, tâm minh chính là giác ngộ trong tâm, giác ngộ trong bổn tánh gọi là Nguyên Minh Giác, là vô sinh diệt tính, vi nhân địa tâm. Vô sinh diệt tính, cũng có nghĩa là, vốn dĩ tâm không sinh ra cũng không diệt độ, bởi vì tâm không sinh nên vô sinh pháp nhẫn, tâm không sinh ra bất kỳ tạp niệm nào, vậy thì còn cần diệt độ chính nó nữa hay sao? Loại tu chứng này gọi là Viên Thành Quả Địa. Theo ngôn ngữ ngày nay mà nói, khi một đứa trẻ vẫn chưa học thói xấu, quý vị nói gì với nó nó đều tiếp nhận, nó biểu hiện tâm Nhân địa ở trạng thái vô sanh diệt. Còn có một loại, khi quý vị đố kỵ người khác, biết phải kiềm chế như thế nào, “Tôi phải nhẫn nại, tôi phải có tâm nhẫn nhục”, trên thực tế quý vị đã trải qua rất nhiều thời điểm không nhẫn nhục, đã trải qua rất nhiều tạp niệm nhân gian, đang kiềm chế, đang thay đổi, điều này không giống với Nguyên Minh Giác ban đầu
Vì thế Bồ Tát dạy chúng ta phải hiểu rằng dù học Phật pháp gì thì cũng phải dùng tâm Nhân Địa trong bổn tánh nguyên thủy của mình để tu tập. Rất nhiều người nói, tôi đã bị ô nhiễm rồi, tôi phải làm sao bây giờ? Cho nên bảo quý vị phải nhảy ra khỏi nghiệp báo, đừng Sống cuộc sống tồi tệ mà hãy bắt đầu cuộc sống mới. Đây là điều mà Phật tổ đích thân truyền lại cho chúng ta. Trong Mật Tông, Hiển Tông, trên thế giới này, bổn sư của Phật pháp là Thích Ca Mâu Ni Phật. Bất luận quý vị học Phật gì, bất luận tông phái gì, bổn sư của chúng ta chính là Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngày nay quý vị đang sống trên thế giới này, bất luận quý vị làm việc gì, Nguyên Minh Giác trong nội tâm chính là bổn tánh của quý vị. Mỗi người chúng ta, bất kể là người xấu, người tốt, người ích kỷ hay người không ích kỷ, đều sở hữu Nguyên Minh Giác, nghĩa là đều có được giác ngộ thiện lương và bản tính thiện lương nguyên thủy.
Sư Phụ kể cho mọi người một câu chuyện cuối cùng của bài giảng hôm nay. Tương truyền rằng có một vị Tỳ-kheo, ông là người ở Thành Xá Vệ, đã xuất gia sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp. Nhưng ông có một thói quen vô cùng không tốt, chính là vô cùng sợ chết, hơn nữa bất kể là ban ngày hay ban đêm, chỉ cần nghe thấy tiếng gió bên ngoài, tiếng chim thú, quái vật kêu, hoặc là nhìn thấy cây khô đang lay động, lắc lư, ông liền cảm thấy sự đe dọa của cái chết đến gần, hơn nữa sau khi cảm nhận thấy những điều đó, thì ông có một thói quen xấu, đó là kêu lên: “Cứu mạng”, và chạy khắp nơi, la hét khắp nơi. Ông không bao giờ nghĩ rằng có một ngày ông sẽ chết, nếu như ông biết cuối cùng có một ngày mình cũng sẽ chết, thì có khả năng ông sẽ không sợ chết rồi. Bởi vì ông chưa từng nghĩ đến việc phải chết, ông chưa từng có kế hoạch: “Tôi đã sống bao nhiêu năm, tôi sẽ làm điều gì, trong bao nhiêu năm cuối cùng của tôi, tôi phải làm những việc gì để tôi có thể lìa khổ được vui, siêu thoát lục đạo”, ông đều chưa từng nghĩ tới, mà ông chỉ sợ chết thôi.
Tâm lý sợ chết của vị Tỳ-kheo này đã bị tất cả các Tỳ-kheo khác biết được. Một ngày nọ, các Tỳ-kheo khác bàn luận về ông trong Pháp đường, có người nói: “Huynh biết không, nghe nói huynh ấy vô cùng sợ chết, suốt ngày bị cái chết đe dọa, trong lòng huynh ấy rất đau khổ”. Một vị pháp sư khác nói: “Là một Tỳ-kheo, nên chắc chắn rằng mình nhất định sẽ chết. Hãy tự mình quán tưởng, có thể hiểu được cái chết thực sự là như thế nào”. Trong khi mọi người đang nói, Đức Phật đi vào, nhìn bọn họ và hỏi: “Mọi người tụ tập ở đây nói về điều gì thế?” Các Tỳ-kheo lập tức trả lời: “Thưa Đức Phật, là về chuyện sợ chết của một vị Tỳ-kheo”. Đức Phật liền gọi vị Tỳ-kheo đó đến và hỏi: “Nghe nói ông rất sợ chết, thật vậy không?” “Vâng, thưa Đức Phật, tôi sợ chết vô cùng”. Vì vậy, Đức Phật quay sang mọi người và nói: “Này các Tỳ-kheo, mọi người đừng chế nhạo và không hài lòng với ông ấy. Ông ấy rất sợ chết, không phải là không có nguyên do, chính là bởi vì kiếp trước ông ấy đã từng gặp phải tình huống như vậy”. Đức Phật rất thích nói về nhân quả, bèn nói về một đoạn nhân quả trong quá khứ của vị Tỳ-kheo này.
Đức Phật kể rằng, ngày xưa có một vị vua khi còn tại vị, đã từng đem một con voi báu ngự dụng giao cho người nuôi voi, bảo ông ta huấn luyện con voi này làm thuật bất động. Do đó người nuôi voi đã treo con voi lên trên cọc gỗ, khiến cho con voi này không thể nhúc nhích, sau đó dùng đủ loại giáo trúc vây quanh bốn phía, nếu con voi này nhảy lên, thì những giáo trúc đó sẽ đâm nó bị thương.
Cứ như vậy, hắn bắt đầu huấn luyện con voi bất động. Con voi này không chịu nổi sự đau đớn khi được huấn luyện, với thân hình to lớn, nó đã phá hủy những cọc gỗ, đè bẹp những cọc gỗ xung quanh, lao ra khỏi đám đông và chạy vào núi sâu. Người ta rượt đuổi theo, “con voi bỏ chạy rồi”, họ đuổi theo lên núi nhưng vẫn không bắt được vì voi chạy rất nhanh nên phải bỏ cuộc và quay trở về. Sau khi voi vào núi, nó cảm thấy rất cô đơn, nó sợ bị bắt trói lại và bị hành quyết, bởi vì nó vẫn còn đang nghĩ đến cảm giác lúc bị trói.
Khi nó nghe thấy tiếng gió, nó rất sợ hãi và sợ chết, liều mạng chạy khắp nơi, như thể vẫn còn bị trói vào cọc gỗ và bị huấn luyện thuật bất động, phải chịu đánh hoặc bị trói lại. Cứ như vậy, con voi mất đi cảm giác an toàn về thể chất lẫn tinh thần, lúc nào cũng run rẩy quanh quẩn một chỗ. Thần cây trong núi sâu nhìn thấy sự bất thường của con voi, liền hát trong rừng: “Hỡi cỏ cây yếu ớt, đung đưa trong gió mạnh, đây được coi như chuyện bình thường. Voi ơi voi ơi, nếu bạn sợ hãi vì điều đó, chắc chắn bạn sẽ tự hủy hoại mình và chết”. Đây là lời thần cây hát cho voi nghe. Thần cây đã động viên con voi điên thất thường và hát cho nó nghe, giúp nó bình tĩnh lại: “Nếu tiếp tục như thế này, bạn sẽ chết mất thôi”. Vì vậy, con voi dần dần bớt sợ hãi hơn, nhưng nỗi sợ hãi vẫn tiếp tục vận hành trong tiềm thức của nó. Đức Phật kể rằng con voi điên lúc bấy giờ chính là vị Tỳ-kheo này. Ông ấy rất sợ chết, nhưng lại không thể tránh khỏi cái chết, chỉ có người thoát khỏi sinh tử mới không bao giờ chết.
Câu chuyện này cho chúng ta biết rằng cuộc sống thực chất là một quá trình từ Không đến Có. Chúng ta không có sinh mệnh, nhưng khi đến thế gian, chúng ta có sinh mệnh rồi. Chúng ta không có cha mẹ, khi đến thế gian, chúng ta đã có cha mẹ. Chúng ta không có sư phụ, chúng ta không có trường học, chúng ta không có tiền, chúng ta không có quần áo v.v.. Tất cả đều là một quá trình từ Không có đến Có ở nhân gian. Giải thoát thực sự là giải thoát nội tâm, bởi vì tất cả vật chất và con người hình thành từ không có đến có đều sẽ biến mất cùng với sinh mạng của quý vị, chỉ khi trong nội tâm quý vị có được giải thoát, thì thế giới này mới có thể hoàn toàn thay đổi. Nhưng vấn đề của con người chúng ta là thường muốn thay đổi thế giới và mong rằng thế giới sẽ thay đổi theo ý muốn của mình. Sư phụ nói với mọi người rằng ai cũng có thể định đoạt được bản thân, nhưng không thể thay đổi thế giới, vì vậy cách thay đổi tốt nhất là thay đổi chính mình. Bất kể cuối cùng chúng ta có danh vọng, địa vị hay tiền bạc, chúng ta đã đánh mất quá khứ và hiện tại, chúng ta vẫn chưa đạt tới tương lai, chúng ta vẫn còn đang trong lục đạo luân hồi và chúng ta chỉ cảm nhận được sự tồn tại của mình trong chốc lát. Đây là lý do tại sao Kinh Kim Cang lại nói “Như mộng huyễn bào ảnh”, trong một sát na. Dùng bình nước thanh tịnh của Quán Thế Âm Bồ Tát để rửa sạch linh hồn dơ bẩn trong lòng chúng ta, cuối cùng chúng ta mới có thể nhận ra rằng, vô sự vô tâm là tự nhiên, vô thị vô phi là chí lý.
Được rồi, hôm nay bài giảng “Bạch Thoại Phật Pháp” dành cho đại chúng đến đây là kết thúc, chúng ta hẹn gặp lại vào lần sau.