Tập 63 - CHỨNG PHẬT QUẢ, MINH TÂM TÁNH

 LỜI MỞ ĐẦU

Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:

“Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường. Con xin cảm tạ Bồ Tát”.

Tập 63

CHỨNG PHẬT QUẢ, MINH TÂM TÁNH

(09/05/2020)

 

Được rồi, hôm nay chúng ta tiếp tục nói về “Bạch Thoại Phật Pháp”.

    Lần trước chúng tôi đã giảng cho đại chúng về Nguyên minh giác. Nguyên minh giác chính là vận dụng tốt “Nguyên” quang minh, bản giác, nguyên sơ và tự giác trong bổn tánh của tự tâm (chính là tự tánh quang minh, tự tánh bất sinh bất diệt mà chúng ta vốn có). Để đạt được Nguyên minh giác, trước tiên quý vị phải khống chế tốt tạp niệm và phiền não trong tâm mình. Hàng ngày ai cũng có những phiền não, vậy làm sao để loại bỏ những phiền não đây? Đầu tiên phải để phiền não lắng đọng lại. Giống như một tách trà, lá trà đều nổi lên trên bề mặt, từ từ chờ nó lắng xuống, như vậy tách trà này sẽ rất thanh tịnh, và đây chính là trà ngon. Sau đó hãy từ từ minh tâm kiến tánh. Đài trưởng vừa giảng cho quý vị về “Giác” và “Nguyên”, trên thực tế bổn tánh viên mãn, giác ngộ và minh tâm kiến tánh đều là một. Khi quý vị có thể sở hữu tự tánh, bổn tánh và giác ngộ vốn có để minh tâm kiến tánh, thì quý vị sẽ biết thế giới này hết thảy đều là bất sinh bất diệt, bởi vì không có sinh ra, cũng không có diệt trừ. Khi hiểu được quy tắc cơ bản của việc học Phật này, thì khái niệm và lý niệm học Phật cơ bản, quý vị đã chủ yếu nắm được, đây chính là bước đầu tiên của học Phật, giới Phật pháp gọi là “Nhân địa tâm”. “Nhân địa tâm” là gì? Chính là tâm vô sinh vô diệt. Khi đến nhân gian, không có nhiều dục vọng, ngay từ đầu đã không có dục vọng, tiếp đó dục vọng phát sinh rất nhiều, đến cuối cùng những dục vọng này cũng sẽ tiêu trừ, vậy thì cuối cùng vẫn giống như chưa sinh ra, đây chính là tâm ban đầu của bổn giác, gọi là “Nhân địa tâm”, bởi vậy mà sinh ra Nhân địa tâm, chính là vô sinh vô diệt. Khi chúng ta đến nhân gian, tất cả những gì chúng ta có được và mất đi, kỳ thực như chưa từng sinh ra, cũng chưa từng bị tiêu diệt.

Điều quan trọng nhất trong việc học Phật là phải có phương hướng đúng đắn, bởi vì nếu hiểu được Nhân địa tâm này, vậy thì hàng ngày quý vị hành, ở, ngồi, nằm và làm mọi việc ở nhân gian, sẽ thuận theo tâm Bồ Tát mà làm, chính là vô sinh vô diệt – không sinh ra loại tâm này, cũng không cần phải đi tiêu diệt loại tâm này, có như thế thì quý vị mới không làm “người” nữa {mà học làm Bồ Tát tại nhân gian}.

Rất nhiều người làm người rất tốt, đều là giả tâm giả ý, họ không có bản giác tự tánh trong sáng tự nhiên bên trong của riêng mình. Người học Phật bất kể là ăn cơm, đi, ở, ngồi, nằm, cho dù đi kết giao bằng hữu, làm công đức, thì tâm nhất định phải luôn trong sáng, một số lời nói dối sẽ có tác động tiêu cực đến việc tu tâm. Nhiều người dành cả cuộc đời để tu tâm cho người khác xem, không phải chính họ thật sự tu cho bản thân mình, “Hãy nhìn tôi tu tâm, hãy nhìn xem sự giác ngộ của tôi bây giờ cao đến mức nào”, điều đó chẳng có tác dụng gì cả, bởi vì Nhân địa chính là “nhân duyên” – Tức là nhân duyên quý vị muốn được giải thoát nhưng chưa thực hành nó một cách đúng đắn. Duyên phận này của quý vị đã đến, duyên học Phật hoặc duyên làm người đã đến, nhưng quý vị đã không thực hành một cách đúng đắn để viên thành Chánh quả, tức là quý vị chưa thực sự hiểu rõ cách tu chứng để viên thành Chánh quả. Sư phụ muốn đưa ra một ví dụ cho quý vị nghe, ví dụ như, làm việc gì đó sẽ luôn có quả báo đúng không, nếu quý vị không hiểu quả báo, mà đối xử tệ với người khác, thì người khác sẽ đối xử tệ với quý vị, đây gọi là nhân quả. Có người năm ngoái đối xử tệ bạc với người khác, người ta nói “Quân tử 10 năm trả thù chưa muộn”, có thể vài năm sau hay một ngày nào đó họ sẽ tìm cơ hội đối xử tệ bạc lại với quý vị, quý vị còn không biết là do quý vị đã từng tạo ra nguyên nhân từ bao nhiêu năm trước. Nếu quý vị không hiểu “Giác” và “Minh” của nó dựa trên nhân địa, vậy thì làm sao có thể tu thành Chánh quả? Vì vậy, những người thực sự tu thành Chánh quả đều dựa trên nền tảng của nhân địa, nghĩa là họ không phạm bất kỳ sai lầm nào về nhân duyên quả báo. Cho dù hôm nay quý vị phát biểu một câu, hoặc trong khi người khác đang nói chuyện quan trọng, chẳng hạn như ông chủ đang nói, nếu quý vị ho vào thời điểm rất quan trọng, bất kể là thật hay giả, khi đó mọi người đều cười, vậy thì quý vị đã tạo ra nguyên nhân này, và quý vị có thể sẽ sớm bị ông chủ sa thải. Quý vị hỏi, “Tại sao? Tôi không thể ho được sao?” Ngay lúc đó thì không thể được, bởi vì quý vị đã tạo ra nhân này trong cái duyên phận này.

Chứng Phật quả chính là minh tâm kiến tánh, chính là hiểu được điều gì nên làm và điều gì không nên làm. Cho nên muốn chứng đắc quả vị Bồ Tát rất khó, quý vị muốn chứng đắc quả vị La Hán cũng đều rất khó. Quý vị muốn kiếp sau được làm người và không phải đọa địa ngục thì ít nhất trước tiên hãy giữ năm giới. Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã dùng Phật pháp dạy dỗ, giáo dục chúng ta: “Như trừng trọc thủy, trữ ư tĩnh khí”. “Như trừng trọc thủy”, chính là nước ô đục cần được làm trong, chúng ta đến nhân gian có ngũ trược ác thế, thì phải làm cho nó trong vắt: “Trữ ô tĩnh khí”, là đặt trong một cái bình yên tĩnh. Sau đó “Tĩnh thâm bất động”, chính là như như bất động. “Sa thổ tự trầm”, tức là phiền não và nghiệp chướng trên thân người dần dần sẽ tự mình chìm xuống. Khi đó “Thanh thủy hiện tiền”, thì quý vị sẽ minh tâm kiến tánh. Đức Phật dạy chúng ta Phật pháp là: Nước vô cùng ô nhiễm, để cho chúng ta phải ở trong hoàn cảnh yên tĩnh “Tĩnh thâm bất động”, như như bất động. Sau đó “cát đất tự trầm”, dần dần sẽ loại bỏ tạp niệm, phiền não: “Thanh thủy hiện tiền”, nước trong này chính là bổn tánh và lương tâm của quý vị. Nhiều người họ có được bổn tánh và lương tâm gì? Có thể hiểu được người khác thì có bổn tánh và lương tâm. Có thể giữ được bản thân như như bất động, thì sẽ có được công năng này.

“Danh vi sơ phục, khách trần phiền não”, “Danh vi sơ phục” chính là hàng phục ban đầu, một người học Phật nhất định phải hiểu được “sơ phục khách trần phiền não”. Đây chính là nói, nếu như quý vị có thể “Tĩnh thâm bất động, sa thổ tự trầm” một cách sâu sắc, thì quý vị mới có thể “Sơ phục khách trần”, chính là hàng phục những phiền não ban đầu của hồng trần thế gian. Thanh tịnh đến từ đâu? Thanh tịnh là bản thân “tĩnh thâm bất động”. Nếu một người có thể an tĩnh thì họ sẽ trở nên rất xinh đẹp. Một người cả ngày phiền não, cả ngày đầy tạp niệm trong đầu, thì họ sẽ trở nên vô cùng dơ bẩn, đừng nói họ xinh đẹp, hình ảnh chắc chắn cũng sẽ bị tổn hại. Làm thế nào chúng ta có thể trau dồi một tâm hồn thanh tịnh từ bản chất nguyên sơ của mình? Hãy yên lặng. Sự tĩnh lặng có thể mang lại trí tuệ, tĩnh có thể sinh tuệ. Đức Phật đã dạy cho chúng ta mọi nguyên tắc tu tập, Đức Phật dạy chúng ta học cách tĩnh lặng, đó là lý do tại sao trong đạo Phật có thiền định, đó là sự lắng đọng để cho bản thân được yên tĩnh sâu sắc, yên tĩnh một cách vô cùng sâu sắc.

Có một câu nói nổi tiếng trong 《Kinh Hoa Nghiêm》: “Bất vong sơ tâm, phương đắc thủy chung” {Không quên đi tâm nguyện ban đầu, mới có thể có phương hướng đi từ đầu đến cuối}. Trong cuộc sống hiện thực, người ta thường hay nói đến câu “Bất vong sơ tâm” với tần suất rất cao, rất nhiều người ngoài miệng thường nói “Bất vong sơ tâm”. Hôm nay Sư phụ sẽ chia sẻ với mọi người câu nói vàng này trong《Kinh Hoa Nghiêm》, hy vọng mọi người hiểu được cái gì gọi là: “Bất vong sơ tâm, phương đắc thủy chung”.

Trước hết nhất định phải giữ vững bổn tánh và tín niệm ban đầu của mình, đừng quên mình đã bắt đầu học Phật như thế nào và đã chịu rất nhiều đau khổ ở nhân gian ra sao, phải phát nguyện thoát khỏi lục đạo, học Phật thật tốt, giữ vững bổn tánh và tín niệm ban đầu của mình. Nhiều người trong nhà gặp nhiều phiền não mới ra học Phật. Trước đây có nhiều người học Phật vì trong gia đình có người sức khỏe kém, hay gặp chuyện không may về tài chính ở công ty, nơi làm việc, khi đó họ tận tâm học Phật, họ cần sự giúp đỡ của Bồ Tát. Tín niệm ban đầu và bổn tánh này của họ đã thành tựu tâm nguyện của họ, để bây giờ họ có thể học Phật và đạt được công đức viên mãn. Đây chính là bổn tánh ban đầu của họ. Kỳ thực mỗi một người ngộ, có người bắt đầu học Phật, có người xuất gia làm hòa thượng, đều là tự nguyện. Sau khi trải qua quá nhiều thất bại trong cuộc sống, Bồ Tát dạy chúng ta đừng bao giờ quên rằng vì có quá nhiều khó khăn và thất bại như vậy ở nhân gian và chúng ta không được quên lý do tại sao ngay từ đầu chúng ta đã muốn trở thành tu sĩ. Đối với chúng ta, những người cư sĩ tại gia, chúng ta không được quên lý do tại sao ngay từ đầu chúng ta muốn học Phật – là bởi vì khổ, vì sự đau khổ trong sinh mệnh và khó khăn trong cuộc sống. Vì vậy, Bồ Tát bảo chúng ta không nên quên đi lý do vì sao lại bắt đầu học Phật, và chúng ta đã từng bắt đầu cam tâm tình nguyện buông bỏ rất nhiều tư dục của đời người cũng như những thứ của riêng mình như thế nào. Người mà thường hay nhớ đến “Bất vong sơ tâm” thì sẽ có sức mạnh, bởi vì tâm ban đầu đã khiến cho quý vị có thể bước vào cửa Phật.

Nhất định phải hiểu được “Phương đắc thủy chung”, phải có một khởi đầu và một kết thúc. Thường xuyên nghĩ đến bản thân “Bởi vì lúc ấy trong nhà khổ, cho nên mình mới tu tâm”, đây là điều rất quan trọng, luôn giữ vững loại lý niệm này, đến cuối cùng sẽ thành công, chính là trước sau như một. Vì sao nói có đầu có cuối? Cái gì gọi là từ đầu đến cuối? Chính là vẫn như vậy, từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc, đều là một người học Phật rất tốt. Sơ tâm chính là thứ chỉ ra phương hướng cho chúng ta. Cái gì gọi là “Sơ tâm”? Động lực khi bắt đầu. Vì sao mà chúng ta có được động lực khi muốn làm một việc gì đó? Còn nhớ có một người rất nổi tiếng, sao ông ấy lại đi nghiên cứu máy trợ tim? Bởi vì có một người trong gia đình ông ấy đã ra đi vì căn bệnh đó, ông ấy rất buồn, nên ông thành lập quỹ và không ngừng đóng góp vào nghiên cứu tim mạch, đó là tâm ban đầu của ông ấy. Phương hướng nỗ lực chính là “sơ tâm” của quý vị, động lực tiến lên chính là “thủy chung” của quý vị. Đừng quên chúng ta đã học Phật như thế nào, lúc đó chúng ta đã có được những gì, tại sao bây giờ chúng ta lại không quên được? Bởi vì trong học Phật, trong “thủy” và “chung” sẽ sinh ra rất nhiều mê hoặc và điên đảo. Đó là lý do tại sao con người tranh cãi và có những ý tưởng khác nhau. Trên thực tế trong cuộc sống của chúng ta, bất kể có bao nhiêu khó khăn hay thất bại, bất kể con đường phía trước có bao nhiêu quanh co khúc khuỷu hay mênh mông mù mịt, thì chúng ta vẫn phải luôn tiến về phía trước, bởi vì mọi thứ trên thế gian đều sẽ thay đổi. Thế nên, hãy giữ cái tâm ban đầu để quý vị không thay đổi ý định ban đầu.

Vấn đề của con người luôn thích “nhược sơ tương kiến”, nghĩa là giống như lần đầu gặp nhau, thế nhưng sau một thời gian dài, họ sẽ dần quen và không coi trọng điều đó. Chúng ta đừng quên cái tâm ban đầu, chính là để cho chúng ta bất cứ lúc nào, cho dù có một thứ gì mới xuất hiện, cũng phải ghi nhớ bản thân đã bước vào cửa Phật như thế nào và bản thân đã bắt đầu học Phật ra sao. Bất vong sơ tâm, hãy ghi nhớ những suy nghĩ chân thật nhất trong lòng quý vị – suy nghĩ chân thật hiện tại trong lòng quý vị, suy nghĩ ban đầu của quý vị là gì, quý vị vẫn phải nhớ kỹ nó, có lẽ tâm ban đầu này chính là lý tưởng lúc đó của quý vị. Bất kể có bao nhiêu biến hóa trong việc tu tâm, nhưng lý tưởng này cũng không thể quên, đây chính là tâm nguyên thủy của một người và người này rất có lương tâm. Cho dù con đường tu tâm của chúng ta xa xôi đến đâu, cho dù con đường về trời của chúng ta phải trải qua bao nhiêu thiên nan vạn hiểm, thiên sơn vạn thủy ngăn trở, chúng ta cũng không thể từ bỏ. Ngày nay chúng ta đi theo Quán Thế Âm Bồ Tát, chúng ta không bao giờ lạc lối, chúng ta không thể quên con đường ngày xưa đã đưa chúng ta đến, chúng ta không thể mất đi mục tiêu của mình. Dù trên đời có những tham muốn làm xáo trộn suy nghĩ của con người, nhưng chúng ta phải luôn giữ vững tâm ban đầu, một tiếng trống làm tinh thần hăng hái thêm, kiên trì đến cùng, để có thể nhìn thấy tâm trí sáng ngời nhất, thuần khiết nhất ở sâu trong nội tâm. Nếu như chúng ta không muốn trở thành kẻ thất bại trong cuộc đời, nhất định phải học được “Bất vong sơ tâm, phương đắc thủy chung”.

Là một vị Bồ Tát, một người học Phật phải “biết tâm niệm của tất cả chúng sinh”, phải hiểu được người khác. Mọi người thử nghĩ xem, xã hội hiện đại có phải đang sống để hiểu người khác hay không? Người này làm càng tốt, chính là càng hiểu người khác.

Chẳng hạn, công ty quý vị càng lớn thì chắc chắn quý vị phải hiểu nhân viên. Gia đình càng tốt nghĩa là vợ chồng hiểu nhau rất tốt. Sư phụ và đệ tử có mối quan hệ tốt có nghĩa là trò hiểu thầy nhiều hơn hay thầy hiểu trò nhiều hơn.

“Biết tâm tư của tất cả chúng sinh” nghĩa là thực thực tại tại thuyết Phật pháp cho họ nghe, thực thực tại tại nói với mọi người một cách chân thực; “Khởi từ trí nghiệp” nghĩa là có trí tuệ. Bồ Tát biết ý nghĩ trong lòng tất cả chúng sinh chúng ta, hơn nữa Bồ Tát y theo trong tâm chúng sinh nghĩ gì để khai đạo cho chúng ta pháp ấy, đây chính là trí tuệ, bắt nguồn từ trí nghiệp – dùng trí tuệ của Bồ Tát để làm sự nghiệp của Bồ Đề, vì hiểu rõ mới có thể thành công.

Trên đời này, ai muốn thành công trước tiên phải hiểu rõ. Ví dụ, nếu quý vị là nhà sản xuất ô tô, quý vị phải hiểu kết cấu của ô tô. Nếu quý vị là kỹ sư của tâm hồn, quý vị phải hiểu được tinh thần và tâm hồn của mỗi người. Mong rằng mọi người sẽ hiểu được “trí nghiệp”, là một loại nghiệp (sự nghiệp lớn) của trí tuệ Đại Phật trí. Vì Bồ Tát hiểu được tâm của tất cả chúng sinh nên có thể “Ứng cơ thuyết pháp”. Trong câu chuyện Đức Phật mà Sư phụ kể cho mọi người, Đức Phật đi đến đâu Ngài thuyết giảng đến đó – tức là ứng cơ thuyết pháp. Trả lời ngay tại chỗ những câu hỏi của đệ tử – tức là ứng cơ thuyết pháp. Vì vậy, trí tuệ càng cao thì càng khéo léo độ chúng và càng hiểu rõ mọi chúng sinh. Một người thực sự có trí tuệ có thể khéo léo để hiểu được tất cả chúng sinh và ứng cơ thuyết pháp.

Trí nghiệp có nghĩa là dùng “tha tâm thông” của chúng ta để có thể hiểu được đối phương, để tạo phước báu và phước nghiệp cho tất cả chúng sinh, dùng chính bản thân để hiểu rõ ý niệm và tâm hành của đối phương, để giáo hóa chúng sinh cả hữu hình và vô hình trong ba cõi: trời, đất và người. Đây là lý do tại sao chúng ta gọi bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật là bậc thầy của ba cõi. Vì vậy, chúng ta phải dùng cảnh giới cao của Bồ Tát để độ hóa tất cả chúng sinh, dùng Tâm Không, Ý Không và Niệm Không để cứu độ họ. Khi cứu độ người khác, nếu quý vị có tư tâm tạp niệm, thì tâm quý vị sẽ không trống rỗng, người khác sẽ nhìn ra được, và họ sẽ không thể tiếp thu nhiều ý kiến của quý vị. Nếu hôm nay ý niệm của quý vị không trống rỗng và chỉ nói: “Hôm nay tôi chỉ là độ họ, để tôi thử xem”. Nếu quý vị có loại tạp niệm này, quý vị sẽ không độ được người khác. Quý vị có suy nghĩ: “Bởi vì họ đã từng là ai, họ đã từng là ai của tôi”. Nếu suy nghĩ của quý vị không trống rỗng, thì quý vị không thể độ được chúng sinh. Vì thế Sư phụ cần mọi người dùng Tâm Không, Ý Không, Niệm Không này để hiểu rõ tất cả chúng sinh. Bồ Tát hiểu tất cả chúng sinh, ngoại trừ bản thân không có ý niệm, không có tư tâm tạp niệm ra, Ngài còn đem tâm từ bi độ người chuyển thành một loại khái niệm, để giúp đỡ quý vị, thành tựu đạo nghiệp trí tuệ cho quý vị.

>> Tập 64

Mới hơn Cũ hơn