Tập 116 – TỰ TẠI GIẢI THOÁT LÀ TUỆ MẠNG

  LỜI MỞ ĐẦU

Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:

“Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường. Con xin cảm tạ Bồ Tát”. 


Tập 116 – TỰ TẠI GIẢI THOÁT LÀ TUỆ MẠNG

Sư phụ Lư Quân Hoành giảng giải Bạch Thoại Phật Pháp ngày 2/8/2020

Một người có hằng tâm, có tấm lòng trong sạch, thì người khác sẽ vô cùng biết ơn quý vị, ngay cả Phật quang cũng sẽ chiếu rọi đến quý vị, phản chiếu lại cho quý vị, và ngay lúc đó quý vị có thể chứng được thiện quả. Quý vị có hằng tâm, luôn đối tốt với người khác, thử xem có thiện quả hay không. Lấy một ví dụ đơn giản, người này luôn nghi ngờ quý vị, nhưng quý vị vẫn luôn đối tốt với họ, thì sẽ có một ngày làm cảm động được họ. Đây chính là sức mạnh của hằng tâm.

Con người rốt cuộc cần chân tâm như thế nào? Chân tâm của một số người là để đổi lấy phước báo, “Tôi muốn có được những lợi ích, phước báu và thiện báo nhất định”. Một số người khác thì thật sự muốn tu tâm, muốn làm việc thiện. Thực ra, người có chân tâm thì trong lòng không có quá nhiều bận tâm lo nghĩ, giống như cha mẹ thật lòng với con cái, cứ kiên nhẫn chờ đợi, rồi sẽ có một ngày nó khai ngộ. Nếu có ngày nào đó quý vị nhìn nó không thuận mắt, nói: “Sao đứa trẻ này vẫn chưa khai ngộ?”, đó chính là vì hằng tâm của quý vị đối với con không đủ, nên nó mới thay đổi. Rất nhiều việc trên thế gian này cần phải dựa vào thời gian, thời gian chưa tới, làm sao có thể khai ngộ? Sư Phụ hỏi quý vị, thời gian đun nước chưa tới, nước có sôi được không? Giờ ăn cơm chưa tới, quý vị muốn ăn sớm cũng vô dụng. Giống như tiệc tự chọn (buffet), thức ăn đã được bày sẵn ở đó rồi, nhưng chưa đến giờ ăn thì quý vị không thể ăn được.

Phải dựa vào nguyện lực để học Phật. Có thể thấu hiểu chân tâm từ đâu mà có, đó cũng là do thiện căn và phước đức đã tích lũy từ nhiều kiếp. Một người có thể thật tâm đối xử tốt với người khác, lẽ nào lại không có căn cơ hay sao? Bảo một tên cướp, một kẻ sát nhân đi đối tốt với người khác, có thể không? Vì vậy, đời này có thể thật tâm với người khác, có thể cho đi chân tâm, thì căn cơ của người này nhất định có thiện căn, hơn nữa tiền kiếp họ đã có phước đức. Cho nên Sư Phụ mới dạy các con phải thấu hiểu người khác. Khi một người thật lòng đối tốt với quý vị, người này có phước báo, họ có căn cơ từ tiền kiếp. Bất kỳ ai có thể chân tâm học Phật, chúng ta đều xem họ là người có căn cơ lương thiện. Vì vậy, khi người đó nói: “Con nguyện học Phật, nguyện dập đầu, con nguyện thay đổi bản thân thật tốt”, chúng ta phải ủng hộ họ, giúp đỡ họ, đây chính là đại từ đại bi.

Người học Phật ngoài việc phải dùng chân tâm, còn phải niệm Kinh, còn phải có thể độ hóa chúng sanh, dùng ý nghĩa chân thật trong kinh văn để dẫn lối cho chân tâm của chúng ta. Khi quý vị khuyên giải người khác thông suốt, nói cho họ đến khai ngộ, thì chân tâm của quý vị đã được phát ra. Không quản ngại phiền phức vì người khác, đó chính là tâm địa lương thiện. Thử nghĩ xem, một người không có hằng tâm, liệu có giúp đỡ người ta lâu dài như vậy không? Một người không có hằng tâm, liệu có thể khuyên giải người khác thông suốt không? Hễ nói một câu “phiền chết đi được”, thì còn có thể nói lên tâm địa của người này lương thiện không? Cho nên trong giới Phật Pháp thường giảng, khi quý vị chân thành khuyên giải người khác đến khai ngộ, quý vị dùng lương tâm và chân tâm để giúp đỡ người khác, đây chính là điều mà giới Phật Pháp gọi là "tâm địa Pháp môn".

Năm xưa, ngài A-nan đã nhiều lần thỉnh cầu Đức Phật khai thị cho chúng sanh, làm thế nào để chúng sanh rời xa hư huyễn giả tướng, khôi phục lại chân tâm tự tại, bất sinh bất diệt vốn có của chúng ta. Cho nên hôm nay Sư Phụ giảng cho quý vị về chân tâm, chân tâm này chính là sự tự tại – sự tự tại vốn có, là Phật tánh giải thoát trong bản tánh của chúng ta. Vì Phật tánh vốn là giải thoát, nó là chân tâm bất sinh bất diệt. Thế nào là bất sinh bất diệt? Hãy xem, quý vị chân thành với người này, dù họ đối xử với quý vị không tốt thế nào, quý vị vẫn không sinh ra tâm chán ghét, tâm phiền não, mà vẫn luôn đối tốt với họ, đó không phải là tâm bất sinh bất diệt hay sao? Quý vị chưa từng vì sự không tốt của họ, vì sự vô lễ, sự phỉ báng, sự oan khuất họ gây ra cho quý vị, mà sinh ra tâm từ bỏ họ, cho nên đó là bất sinh bất diệt. Vì vậy, hành động này của ngài A-nan chính là bi tâm của Phật; còn việc Đức Phật khai thị cho chúng ta, cứu độ chúng ta, chính là để chúng ta thoát khỏi biển khổ sinh tử, đây chính là từ bi tâm của Phật. Giống như khi chúng ta đi cứu một người, chúng ta không chỉ cần giúp đỡ họ, mà còn phải học cách thấu hiểu họ. Quý vị hãy ghi nhớ, giúp đỡ một người mà không thể thấu hiểu họ, thì quý vị không thể giúp được họ; để cuối cùng giúp họ thật sự thoát ly khổ đau, quý vị phải đồng hành cùng họ bước ra khỏi bóng tối. Khi chúng ta còn nhỏ học đi xe đạp, cha mẹ phải giúp chúng ta học cách đạp xe, chúng ta đạp nhanh bao nhiêu, họ phải chạy theo bấy nhiêu, chỉ cần buông tay là chúng ta sẽ ngã. Vì vậy, phải giúp đỡ những người muốn học Phật, những người chưa hiểu Phật Pháp được khai ngộ, bước ra khỏi bóng tối, đây mới là chân tâm của chúng ta; chứ không phải là “hôm nay tôi giảng đạo lý cho anh rồi thì tôi không quan tâm nữa”, cách làm này chỉ là cứu người trên danh nghĩa, không phải dùng chân tâm của Phật.

Thật ra, tất cả sắc tướng trên thế gian này đều là do tâm biến hiện ra. Quý vị thấy sự vật này là tốt, thì tâm của quý vị cho rằng nó tốt; thấy sự vật này không tốt, thực ra là do tâm của quý vị cho rằng nó không tốt, chứ không phải bản thân sự vật đó không tốt. Có phải vậy không? Mọi người thử nghĩ xem, quý vị đều có tâm đố kỵ, đều có tâm ngờ vực, tâm hoài nghi. Sư Phụ thường gặp nhiều người chạy đến hỏi: “Thưa Sư Phụ, hôm nay có phải Sư Phụ có ý kiến gì với con không ạ?” “Không có.” “Vậy tại sao Sư Phụ đi ngang qua mà không thèm nhìn con một cái? Sao hôm nay Sư Phụ nhìn con mà mặt không vui?” Là do tâm của quý vị không vui, chứ không phải Sư Phụ không vui với quý vị. Biết đâu Sư Phụ không nhìn thấy quý vị thì sao? Tâm của quý vị động thì sự vật này liền động. Nếu Sư Phụ nhắm mắt đi ngang qua quý vị, mà tâm của quý vị lại nghĩ “Mình thấy Sư Phụ nhắm mắt, Ngài đã nhìn mình rồi, Ngài đang cười trong lòng…”, đây chính là suy đoán tâm lý của người khác. Cho nên phải dùng chân tâm thì quý vị mới có thể diệu dụng Phật Pháp, cứu người chính là diệu dụng Phật Pháp.

Dù thấy người hay sự vật trong nhân gian, quý vị đều có thể hiểu rằng đó chỉ là các loại Pháp tướng, chỉ là một hiện tượng mà thôi; quý vị "bất trụ trước" (không chấp vào đó), “tôi không đuổi theo, không chìm đắm trong đó”, thì quý vị có khổ đau gì? Hôm nay quý vị không cảm thấy trời rất lạnh, quý vị sẽ không thấy lạnh; vì tâm quý vị có cảm nhận, nên mới thấy rất lạnh. Hôm nay quý vị cảm thấy rất vui vẻ, rất Pháp hỷ, thì quý vị đang sống trong Pháp hỷ. Nhưng quý vị phải hiểu được sự tịch lặng của tánh Không, đừng trụ trước vào trong đó. Giống như khi chúng ta cứu người, tuy phải cứu họ, tuy phải dùng hằng tâm, nhưng chúng ta phải tùy duyên. Bây giờ họ chưa khai ngộ, cũng không thể ép buộc họ, đó gọi là tùy duyên; nhưng hãy dùng chân tâm của quý vị để cảm hóa họ, để giải quyết những phiền não về người và việc trong quá trình tu hành, thì đó chính là sự hiển hiện Pháp thân của quý vị ở khắp mọi nơi. Quý vị không có Pháp thân sao? Có chứ, khi quý vị đang giúp đỡ người khác, quý vị chính là đang sở hữu Pháp thân; khi người khác có thể nhớ đến quý vị, quý vị đang sở hữu Pháp thân; khi người khác biết ơn quý vị, quý vị đang sở hữu Pháp thân. Cho nên học Phật là phải học cách giúp đỡ người khác, sở hữu ánh sáng của Phật Pháp, như vậy Pháp thân của quý vị mới có thể ở khắp nơi như Phật, chiếu rọi chúng sanh. Chúng ta hãy nỗ lực học Phật, nỗ lực đi theo Đức Phật, hãy để tâm của chúng ta hiển lộ chân tâm, để thế giới này trở nên tốt đẹp hơn. Lần sau sẽ tiếp tục giảng cho quý vị.

Tiếp theo, Sư Phụ muốn kể cho quý vị nghe một câu chuyện, một câu chuyện từ thời Đức Phật còn tại thế.

Có một vị Tỳ-kheo, ngài có thói quen suy tư và quan sát mười bốn vấn đề nan giải (lát nữa cuối bài Sư Phụ sẽ giải thích cho quý vị, thế nào là mười bốn vấn đề nan giải). Ngài thường nghĩ mãi không thông, ngài nghĩ: “Ôi, chuyện này sao lại thế này…” Ngài có thói quen suy tư, “Ôi, rất nhiều vấn đề trên thế gian này…”. Trong quá trình học Phật, ngài gặp vấn đề nghĩ không thông, liền đi hỏi Phật. Ngài nghĩ tới nghĩ lui vẫn không thông, canh cánh trong lòng, đứng ngồi không yên.

Một hôm, ngài ôm y bát đến phòng của Phật, bạch với Phật rằng: “Thưa Đức Thế Tôn! Xin Ngài hãy giải thích cặn kẽ mười bốn vấn đề nan giải cho con nghe được không ạ? Nếu Ngài có thể làm cho nội tâm con hoàn toàn minh bạch, con nhất định sẽ bái Ngài làm thầy, làm đệ tử của Ngài. Nếu Ngài không giải thích được, con sẽ phải đi theo con đường khác để cầu học người khác.” Ngài đã nói với Đức Phật như vậy. (Bây giờ chúng ta biết Đức Phật vĩ đại như thế nào, nhưng vì lúc đó họ ở bên cạnh Phật, họ không có cảm nhận này.)

Đức Phật rất từ tốn nói với ngài: “Khi con phát nguyện làm đệ tử của ta, không phải con đã từng nói rằng, nếu ta có thể trả lời mười bốn vấn đề nan giải thì con mới làm đệ tử của ta sao?”

“Dạ không ạ, không có ạ.”

Phật nói: “Con thật ngu si, đến bây giờ tại sao còn nói những lời như ‘nếu không thể trả lời, con sẽ không làm đệ tử’? Ta thuyết Pháp cho những người không thể tránh khỏi sinh, lão, bệnh, tử. Mười bốn vấn đề nan giải này của con toàn là những Pháp để tranh luận biện bác, những Pháp này hoàn toàn không có lợi ích gì cho việc tu tâm chân chính. Thảo luận những điều này có thể chỉ là một trò cười, đôi khi còn là những lời nói hý luận vô bổ, tại sao con lại cần phải đặt ra những nghi vấn này?” Phật nói tiếp: “Cho dù ta có trả lời con, con cũng chưa chắc đã thật sự hiểu được, con có suy tư đến chết cũng e rằng không giải thích nổi. Kết quả, đối với những vấn đề cấp bách của đời người như sinh, lão, bệnh, tử, con chẳng phải vẫn không hiểu và không được giải thoát hay sao? Ví như có người bị trúng tên độc, người thân muốn gọi thầy thuốc đến để nhổ tên và bôi thuốc cho anh ta, thì anh ta lại cứ lẩm bẩm trong miệng rằng ‘tạm thời đừng nhổ mũi tên, tôi nhất định phải hỏi tên họ, nơi sinh và tuổi của cha mẹ ông. Rồi tôi cũng muốn biết lai lịch của mũi tên này, nó đến từ ngọn núi nào, làm bằng loại cây gì, dùng lông vũ gì làm cánh tên, mũi tên dùng loại sắt gì để rèn. Còn về cây cung, nó đến từ gỗ của ngọn núi nào, và thuốc độc đó đến từ đâu, thuộc loại nào, tên gọi là gì?’. Có phải cần phải biết chính xác tất cả những nghi vấn này rồi mới cho phép thầy thuốc nhổ tên và bôi thuốc không?” Đức Phật nêu ra nhiều vấn đề như vậy để minh họa điều gì? Đức Phật tiếp tục hỏi vị Tỳ-kheo: “Có phải cần đợi anh ta biết rõ tất cả những chi tiết này rồi, con mới cho rằng nên giúp anh ta nhổ tên ra không?”

Vị Tỳ-kheo thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, không cần phải biết ạ. Nếu đợi đến khi anh ta biết hết mọi chuyện, người đó đã sớm không còn sống nổi nữa rồi.”

Phật nói: “Trường hợp của con cũng không khác gì. Con xem, những mũi tên của tà kiến, được tẩm thuốc độc, thực ra nó đã bắn vào tim của con rồi. Con muốn nhổ mũi tên này ra, làm đệ tử của ta; nhưng con lại không định nhổ tên ra, mà ngược lại muốn giải quyết những vấn đề vô bổ như thế gian là thường hay vô thường, là hữu biên hay vô biên (đây là những câu hỏi khó nhất trong mười bốn vấn đề nan giải). Để tìm kiếm câu trả lời cho những vấn đề nan giải này, trước khi có được câu trả lời, có lẽ con đã sớm đánh mất tuệ mạng của mình, con sẽ giống như súc sinh mà rơi vào cõi chết, chẳng khác nào tự mình lao vào bóng tối.”

Quý vị có hiểu ý của Đức Phật khi nói điều này không? Đó là, bất kỳ người học Phật nào truy cứu vào một số lý luận Phật Pháp, chấp trước muốn lý giải nó mà không thật sự khai ngộ, khi quý vị đi làm những nghiên cứu không cần thiết, có thể quý vị đã đánh mất thời gian, đánh mất tuệ mạng của mình, đó là lời Phật dạy.

Vị Tỳ-kheo sau khi nghe xong cảm thấy vô cùng hổ thẹn, ngài đương nhiên hiểu được lời dạy của Phật, vì vậy ngài đã bái Phật làm thầy và sau đó chứng được quả vị A-la-hán. Đây là câu chuyện trong Đại Tạng Kinh.

Có lẽ quý vị cũng có chút hứng thú, mười bốn vấn đề này chủ yếu nói về những nghi vấn mang tính siêu hình học. Ví dụ, trong mười bốn vấn đề, vấn đề thứ nhất: Thế giới rốt cuộc là như thế nào? Thế giới rốt cuộc là thường hay vô thường? Là vừa thường vừa vô thường? Hay chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường? – chính là những loại vấn đề này.

Thứ hai: Thế giới là hữu biên (có giới hạn không gian) hay vô biên? (Là không có không gian, hay có không gian?) Hay là vừa hữu biên, vừa vô biên? Hay chẳng phải hữu biên, cũng chẳng phải vô biên? Điều này giống như vấn đề chúng ta nêu ra bây giờ: “Bạn là người tốt hay người xấu?”. Nói bạn là người tốt, thì bạn lại thường có những ý nghĩ không tốt; nói bạn là người xấu, thì bạn lại là người học Phật, đôi khi cũng rất nỗ lực. Rốt cuộc bạn là người tốt hay người xấu? Những loại vấn đề này, Đức Phật dạy chúng ta đừng nên bàn luận, vì sẽ lãng phí thời gian, lãng phí trí tuệ của quý vị, khiến cho trí tuệ thông minh của quý vị bị mai một đi.

Còn có vấn đề về thân và tâm của quý vị – ngày xưa trong giới Phật Pháp chuyên nghiên cứu và biện luận những vấn đề này – thân và tâm là một thể hay là hai thể riêng biệt? Bây giờ quý vị đã biết, thân và tâm có riêng biệt không? Thân là thân, tâm là tâm, đúng không? Có riêng biệt chứ? Quý vị nói có riêng biệt, Sư Phụ có thể nói với quý vị là không riêng biệt, vì thân của quý vị đại diện cho tâm của quý vị, và tâm của quý vị đại diện cho thân của quý vị; quý vị nói không riêng biệt, dĩ nhiên là có riêng biệt. Rốt cuộc là có riêng biệt hay không riêng biệt? Giống như Sư Phụ vừa nói, quý vị rốt cuộc là người tốt hay người xấu? Người tốt tại sao lại làm việc xấu? Nói quý vị là người xấu, tại sao quý vị lại tu tâm, lại nỗ lực như vậy?

Còn có vấn đề về Như Lai sau khi chết, cũng nằm trong mười bốn vấn đề. Đây là những câu hỏi vấn đáp, để người ta hỏi và trả lời: “Như Lai sau khi chết là còn hay không còn? Hay là vừa còn vừa không còn? Hay là chẳng phải còn cũng chẳng phải không còn?” – chính là hỏi những vấn đề này. Quý vị đều biết Như Lai là gì, Như Lai là Niết-bàn, là người đã hoàn thiện nhân cách, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Như Lai, Phật, đúng không? Quý vị nói rốt cuộc là có hay không? Như Lai có ở trong tâm chúng ta không? Có chứ. Quý vị có thấy được người không? Không thấy được. Có không? Có. Rốt cuộc là có hay không? Vừa có vừa không. Quý vị đi truy cứu những vấn đề này thì có ý nghĩa gì?

Đức Phật chính là dạy chúng ta rằng, khi chúng ta thường mê hoặc trong những sự vật này, trong việc nghiên cứu những vấn đề này, trong việc biện luận những chuyện này, quý vị sẽ bị tổn thất, vì thời gian của quý vị bị tổn thất, quý vị sẽ mất đi trí tuệ. Giống như chúng ta thường nói, nếu quý vị thường xuyên tranh luận với một người không có trí tuệ, thì chỉ số thông minh của quý vị sẽ sụt giảm. Cho nên người xưa có câu, thà cãi nhau với người có trí tuệ, còn hơn nói chuyện với người không có trí tuệ. Người không có trí tuệ không thể mang lại cho quý vị nhiều tâm tinh tấn. Vì vậy, những cuộc biện luận vô bổ, Phật không trả lời. Năm xưa có nhiều người hỏi Phật rất nhiều vấn đề: “Thưa Đức Phật, thế giới này là có hay không? Là phải hay trái, là có không phải là không?” Năm xưa, trong Phật tánh của mình, Đức Phật đã nói một câu, quý vị hãy ghi nhớ, đó là “vô ký”. Phật không trả lời chính là “vô ký”, mọi người hiểu không?

Người học Phật chúng ta phải hiểu rằng, Bồ Tát không giác ngộ những việc khác, chỉ giác ngộ chính mình, tại sao vậy? Bởi vì khi quý vị tự mình giác ngộ, hiểu rõ thế gian này, thì quý vị đã giác ngộ rồi. “Bởi vì người giác ngộ được tâm mình chính là người giác ngộ được tất cả chúng sanh.” Nhiều người ngay cả mình là ai cũng không biết, ngay cả tâm mình cũng không hiểu, làm sao quý vị có thể khuyên giải người khác thông suốt được? Giống như Sư Phụ, nếu hôm nay Sư Phụ không biết mình đang nói gì, làm sao Sư Phụ có thể giảng cho quý vị thông suốt được? Hãy học lấy điều tôn quý nhất trong đời người là: bất kể người khác có hiểu hay không, hãy giữ cho mình một trái tim trí tuệ, đừng đi chiếm lợi của người khác. Sinh mệnh của một người là có hạn, trí tuệ cũng có hạn, nhưng người học Phật hãy nhớ rằng, chỉ khi kết nối sinh mệnh và tuệ mạng của chúng ta với sinh mệnh của các chúng sanh khác, chúng ta mới sở hữu được tuệ mạng vĩnh hằng không tàn lụi. Xin cảm ơn quý vị.

Tốt rồi, hôm nay Sư Phụ giảng cho quý vị đến đây, chúng ta sẽ gặp lại trong chương trình lần sau. Xin cảm ơn quý vị.


Mới hơn Cũ hơn