LỜI MỞ ĐẦU
Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:
“Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường. Con xin cảm tạ Bồ Tát”.
Tập 88 - BẤT SINH BẤT DIỆT TRONG PHẬT PHÁP
Sư phụ Lư Quân Hoành giảng giải Bạch Thoại Phật Pháp ngày 13/06/2020
Người thực sự hiểu Phật Pháp phải biết rằng lìa khổ mới có thể an lạc. Hôm nay quý vị buông bỏ, xả đi những phiền não trên người mình, xả đi tham-sân-si của mình thì quý vị mới có thể thực sự an lạc. Nhiều người nói: "Tôi rất ổn, tôi rất vui vẻ"— tất cả đều là trống rỗng, giả dối, bởi vì trong tham-sân-si, quý vị sẽ không bao giờ có được niềm vui thực sự. Lấy một ví dụ, một người chân cẳng không tốt, không đi lại được, phải luôn chống gậy. Một ngày kia, người ấy lìa khổ, không cần chống gậy nữa, thì tất nhiên người ấy sẽ vui vẻ. Nhưng sau khi vui vẻ rồi, vì không còn cảm giác nữa, người ấy quên đi cái khổ mà đôi chân đã gây ra cho mình, thế là người ấy lại vì những cơn đau ở các bộ phận khác trên cơ thể mà chịu một cái khổ khác. Ví dụ này là để nói với mọi người rằng, chỉ cần trên người còn có khổ, quý vị không thể nào an lạc được, bởi vì khổ đau và vui vẻ không hẳn là tuyệt đối, mà là tương đối. Lìa khỏi cái khổ nhỏ, lại có cái khổ lớn; lìa khỏi cái khổ lớn, lại có cái khổ nhỏ.
Làm thế nào để có thể loại bỏ khổ đau một cách triệt để? Chính là phải lìa khổ được vui, đem tất cả những phiền não, những tâm tham, tâm sân, tâm si — những thứ thực sự tạo ra khổ đau — loại bỏ hoàn toàn, thì mới có thể thực sự đắc được Pháp lạc. Nếu quý vị chấp tướng vào một cái khổ nào đó, thì quý vị sẽ không bao giờ tìm thấy được thế nào là an lạc. Ví dụ, khi miệng rất khô, chỉ cần có nước là quý vị cảm thấy rất vui; bình thường khi miệng không khô, xung quanh có đủ loại nước và đồ uống, quý vị cũng không cảm thấy vui vẻ gì. Đây chính là điểm đặc sắc của Phật Pháp. Dù có nước, có đủ loại đồ uống, nhưng vì quý vị không khát nên không thấy vui; vì quý vị khát nên dù chỉ một chút nước thôi cũng khiến quý vị thấy vô cùng vui sướng. Điều này cho chúng ta biết rằng, người học Phật nên lý giải thế giới quan về khổ và lạc như thế nào. Hôm nay chúng ta dù chưa hoàn toàn khổ đau, nhưng chúng ta biết rằng những tật xấu của mình sẽ tạo ra rất nhiều đau khổ. Giống như Sư phụ từng nói với mọi người, dù quý vị thấy bên cạnh có rất nhiều đồ uống và nước, nhưng bây giờ miệng không khát, thì phải nghĩ đến lúc khát thì làm sao, cho nên phải chuẩn bị sẵn nước để mang theo. Nói cách khác, bây giờ chúng ta tu tâm phải hiểu vô thường, nó sẽ biến đổi. Khổ và lạc này là vô thường, khổ qua rồi sẽ vui, vui rồi lại khổ.
Làm thế nào để nắm bắt được khổ và lạc này? Cách tốt nhất là: thứ nhất, phải hiểu thế nào là khổ, thế nào là lạc, vì nó là một loại cảm giác; thứ hai, phải biết trân trọng khi chưa có khổ, phải biết vui (tri lạc). Giống như quý vị dù thân thể không có bệnh tật gì, rất bình yên, nhưng phải trân quý: "Tôi rất an lạc, vì bây giờ tôi không bị đau răng, không bị đau chân, thân thể còn khỏe, tim còn tốt." Đây chính là biết vui thì mới lìa khổ. Người không biết đủ thì sẽ khổ đau. Sư phụ đem lý luận Phật học, triết học này lật ngược lại để giảng cho quý vị nghe, chính là để quý vị hiểu rằng khổ và lạc là tương đối. Làm sao để duy trì sự an lạc của mình? Cách tốt nhất là thoát ly khổ nạn.
Bồ Tát không tham chấp. Nếu Bồ Tát tham chấp thì sẽ trở thành chúng sinh. An lạc là một khoảnh khắc ngắn ngủi. Quý vị rất thanh tịnh, quý vị thường xuyên muốn được an lạc, chẳng phải là đã lìa khổ rồi sao? Người an lạc chẳng phải đã rời xa khổ đau rồi sao? Cho nên, thực sự diệt trừ khổ nạn của chính mình mới có thể sinh ra niềm an lạc vĩnh hằng. An lạc vĩnh hằng chính là mỗi ngày đều biết đủ (tri túc), quý vị sẽ rời xa được khổ nạn. Sư phụ lấy một ví dụ đơn giản, hôm nay quý vị có một chỗ ngồi trong văn phòng, quý vị nên mỗi ngày đều cảm thấy rất vui vẻ: "Mình vẫn còn một chỗ ngồi, bao nhiêu người còn chưa có." "Hôm nay mình còn có thể làm công đức, còn có thể ở trong xã hội này độ chúng sinh, giúp đỡ người khác, mình có tay có chân, có thể giúp người khác," chẳng phải rất an lạc sao? Đúng vậy. Thường xuyên giữ gìn niềm an lạc này thì quý vị có khổ không? Không còn nữa. Trước đây có người bị tàn tật, dù tàn tật nhưng họ dùng đôi tay, đôi chân khuyết tật của mình mỗi ngày phục vụ chúng sinh, họ rất hoan hỷ. Mỗi ngày họ vì người khác, dùng tay chân khuyết tật giúp người ta làm việc, họ rất an lạc. Sư phụ hỏi quý vị, khi họ đang an lạc, có phải họ đã rời xa đau khổ rồi không? Điều này nói với chúng ta rằng, nếu muốn tìm kiếm niềm an lạc vĩnh hằng, quý vị phải rời xa điên đảo mộng tưởng, rời xa phiền não, rời xa khổ đau.
Thực ra không chỉ là rời xa khổ đau, Phật Pháp giúp chúng ta rời xa sinh tử. Sư phụ giảng điều này từ nông đến sâu cho quý vị hiểu, chính là phải rời xa sinh tử. Bởi vì quý vị phải hiểu rằng, thân thể con người, huệ mệnh con người, sinh mệnh con người đều là bất sinh bất diệt. Thực sự hiểu được Ngã tướng, quý vị sẽ không mang Ngã tướng mà sống trong thế giới này. Thực sự biết rằng: "Cần gì sĩ diện? Sĩ diện chỉ làm tổn thương mình, làm tổn thương người khác," như vậy, quý vị sống thực chất trong thế gian này, có phải người khác sẽ tôn trọng quý vị, và bản thân quý vị cũng sống rất vững chãi không? Người loại bỏ được Ngã tướng, đó mới là sống trong thế giới chân thật.
Vì có "cái tôi", chúng ta mới đau khổ: "phiền não của tôi, danh của tôi, lợi của tôi… tất cả của tôi đều mất hết rồi." Quý vị xem, những người khổ đau, có ai mà không nói: "Vì tôi đã mất cái này, tôi đã mất cái kia…"? Họ cảm thấy mất mát quá nhiều nên mới có phiền não, mới có khổ đau. Vì có "cái tôi" này, nên khi ra đi quý vị không nỡ buông, quý vị sẽ đau khổ. Nếu quý vị Vô ngã, cảm thấy: "Con người vốn chỉ là một loại cảm giác, bây giờ mình đến nơi khác để cảm nhận xem sao," thì quý vị sẽ không còn khổ đau nữa. Cho nên dùng phương pháp này để nhìn vạn vật trên thế gian, quý vị sẽ buông bỏ được tất cả danh lợi, vinh dự, vật chất, tài sản mà mình có được, quý vị sẽ hiểu thế nào là xả bỏ, bởi vì chúng không có ý nghĩa gì. Cho nên phải sống cho trong sạch, sống cho xứng đáng với người khác, đừng sống trong cái tôi giả dối. Nhiều người vì sĩ diện, trước mặt một kiểu, sau lưng một kiểu, là người hai mặt, sống rất khổ sở.
Cho nên, Phật Pháp thực sự giúp chúng ta hiểu được Vô ngã, chính là trong tâm hồn con người phải sở hữu cảnh giới của Phật, mới có thể rời xa đau khổ, rời xa ưu sầu. Sư phụ đã từng nói với quý vị, tại sao bầu trời lại trong sạch như vậy? Vì bầu trời không chấp tướng, vì bầu trời là hư không, không có vật chất hay danh vọng hiện hữu tồn tại. Cho nên mới gọi là vô thiện diệc vô ác, vô khổ diệc vô lạc (không thiện cũng không ác, không khổ cũng không vui), đó mới là niềm an lạc chân thật. Vì không có khổ nạn nên quý vị an lạc; vì niềm an lạc này cũng sẽ qua đi, quý vị cũng không có gì để gọi là an lạc, đó mới là an lạc thực sự. Cho nên, niềm an lạc trong sạch, niềm an lạc cứu cánh, đó chính là thanh tịnh Vô ngã. Tại sao các pháp sư trên núi ngồi thiền niệm Kinh? Chính là vì họ thanh tịnh Vô ngã. Dùng lời thế gian mà nói, đã đạt đến cảnh giới "bình an là phước". Bởi vì quý vị không cảm thấy mình có phước, không cảm thấy có đau khổ, cũng không cảm thấy có hạnh phúc, đây là một loại hạnh phúc thuần khiết, loại này gọi là bình an, loại này gọi là an lạc, đây mới là cảnh giới của Phật.
Hôm nay lại giảng cho quý vị về tu tâm tu tánh, tu thành Phật tánh. Chúng ta tu tâm thực ra là tu sửa cái bổn tánh của mình, phải tu thành Phật tánh, tịch diệt tất cả tự tánh. Tức là người tu tâm cuối cùng phải tu đến được Phật tánh sâu thẳm nhất trong tâm mình. Quý vị không ngừng tu vào bên trong, tu đến bổn tánh của mình rồi thì sẽ tìm thấy Phật tánh của mình. Lấy một ví dụ đơn giản, quý vị muốn đào một vật gì đó, cứ đào, đào mãi, tìm thấy rồi, đó là đã vào đến nội tâm rất sâu, tìm được Phật tánh của mình rồi. Vậy thì lúc này phải tịch diệt tất cả tự tánh. Thế nào là tịch diệt tất cả tự tánh? Ngay cả cái tâm muốn đào, muốn tìm lúc ban đầu cũng không còn nữa, bởi vì khi quý vị tìm được rồi, quý vị quên hết cả quá trình, cho nên thế gian tịch diệt tất cả tự tánh. Đây là tu tâm chân chính, là một cảnh giới cao của Phật.
Cảnh giới cao cuối cùng chính là vô sinh vô diệt. Thế nào là vô sinh vô diệt? Chính là vô phiền não, vô sinh vô diệt. Quý vị hãy nghĩ xem, tâm phiền não của chúng ta có phải là sinh ra không? Tâm an lạc cũng là sinh ra phải không? Khi quý vị không sinh ra tâm phiền não, cũng không sinh ra tâm an lạc, có phải là không có sinh thì làm sao có diệt? Bởi vì quý vị sinh ra sự an lạc, một thời gian sau, quý vị sẽ diệt mất sự an lạc đó, rồi sẽ đau khổ. Nếu quý vị sinh ra tâm phiền não, quý vị sẽ phải chịu rất nhiều khổ đau, quý vị chờ đợi nó diệt đi nhưng có thể sẽ thấy thời gian trôi qua rất dài. Cho nên, quý vị không nghĩ đến — không nghĩ đến an lạc, không nghĩ đến khổ đau — như vậy là vô sinh vô diệt, sau đó là vô phiền não, quý vị mới có thể tìm thấy được sự chân tịnh (trong sạch và tĩnh lặng chân thật) nơi sâu thẳm tâm hồn, quý vị mới có thể tìm thấy tự tánh thanh tịnh vốn có — sự thanh tịnh của bổn tánh. Cho nên người không tham thì rất tĩnh tại: "Không sao cả, quý vị có được thì tốt cho quý vị, tôi rất vui." Tất cả đều là tự tánh thanh tịnh, đó trong giới Phật học gọi là chân như chân tánh.
Vậy chân như chân tánh tu đến sau này chính là muốn thành Phật. Nhiều người hỏi Sư phụ: "Thưa Sư phụ, chúng con học Phật, muốn thành Phật, có mấy loại ạ?" Sư phụ hỏi các con có mấy loại? Đương nhiên là có, hơn nữa còn nói cho các con biết, có ba loại, ba phương pháp thành Phật.
Thứ nhất, "Khắc kỳ thủ chứng", tức là Pháp thân Đại viên mãn thành Phật ngay trong đời này.
Nghĩa là, tất cả nhân duyên thành Phật của quý vị ở nhân gian đều chín muồi, thành tựu sự viên mãn của Phật tánh, quý vị dùng trí tuệ và pháp thân ở nhân gian, dựa vào sức mạnh của chính mình. "Khắc kỳ" là gì? "Khắc" là định ra, "kỳ" là thời hạn. Thực ra, "Khắc kỳ thủ chứng" là định ra thời hạn cho mình để thành Phật. Nhiều người không biết, cứ tưởng có thể kéo dài mãi, tưởng rằng thời gian đến là có thể thành Phật. Phải tự định thời gian cho mình, hạn định ngày thành Phật của mình. "Khắc kỳ thủ chứng" chính là hạn định ngày tháng cho mình, học Phật tu tâm, sau đó thành đạo, để mong đạt được Phật quả. "Thủ chứng" là đạt được chứng ngộ, chứng quả.
Điều thứ nhất, "khắc kỳ thủ chứng", là định thời gian để thành Phật. Tại sao nhiều người nói "Tôi tu tâm, chuẩn bị một đời tu thành"? Đây có phải là thời hạn không? Quý vị phải tu hành trong đời này, một đời tu thành, chính là trong những năm quý vị còn sống, đó chẳng phải là "khắc kỳ" sao? Hãy cho mình một thời hạn. Cho nên quý vị niệm kinh cũng vậy, học Phật cũng vậy, nếu muốn thành Phật thì phải tự đặt thời hạn tu hành cho mình: "Từ nay về sau, con sẽ không lãng phí thời gian nữa. Con phải tụng xong số kinh văn này trong vòng mấy tháng." Đây đều là "khắc kỳ", phải có thời hạn. Khi quý vị bạch với Bồ Tát, nhiều người nói: "Con đã phát nguyện với Bồ Tát nhiều như vậy, tại sao không linh ứng?" Quý vị có thể nói rất nhiều, nhưng không cho mình một thời hạn thì không được tính. "Bồ Tát ơi, con nhất định sẽ sửa đổi." "Bồ Tát ơi, sau này con nhất định sẽ ăn chay." Quý vị nói xem đó là nguyện lực gì? Lời nguyện nào mới có thể được chư vị Hộ Pháp bảo hộ, được Bồ Tát tán thán? Phải "khắc kỳ"—phải có thời gian, kể cả một đời tu thành, đó cũng là một thời hạn. Quý vị bận rộn mãi rồi nói: "Sau này con nhất định sẽ ăn chay," điều đó vô ích, không được tính là nguyện lực, vì không biết là năm nào tháng nào. Người muốn thành Phật phải có thời hạn, gọi là "khắc kỳ", định giờ định khắc làm giống như Phật, sau đó được viên mãn thành Phật.
Thứ hai, "Mệnh chung đăng vị". Đây là trường hợp một người tu hành, sau một đời tu tập rất tốt, khi đến lúc mệnh chung (lâm chung), sẽ được Đức Phật và rất nhiều vị Phật khác, hoặc vị Đại Bồ Tát, vị Phật nào mà người đó có duyên, từ trên trời xuống tiếp dẫn Báo thân này. Người đó dùng tự lực của mình cùng với lực tiếp dẫn của chư Phật Bồ Tát để thành Phật.
Thứ ba, "Trung ấm chuyển thành". Đây là Ứng thân. "Trung ấm" chính là Thân Trung Ấm. Loại thứ ba này để thành Phật thì khó hơn một chút, chủ yếu dựa vào lực của pháp giới tại nhân gian, con người dựa vào sức mạnh của pháp giới. Hôm nay quý vị ở nhân gian là người có đại thượng căn cơ, là Bồ Tát thừa nguyện tái lai, rồi quý vị không ngừng làm việc thiện, không ngừng tu tâm, không ngừng giúp đỡ chúng sinh, dần dần sẽ có một loại gọi là Pháp Thiên Thức. Pháp Thiên Thức là gì? "Thiên" nghĩa là di chuyển, là di chuyển ý thức của quý vị, chuyển biến ý thức của quý vị. Nghĩa là, một người nếu muốn thành Phật thì phải chuyển hóa ý thức của mình ở nhân gian, bởi vì ý thức ở nhân gian đều là bát thức hữu lậu, không viên mãn; tám thức trong điền của con người là không viên mãn.
Lấy một ví dụ đơn giản, "Tôi giúp anh là có mục đích," quý vị nói xem có viên mãn không? "Giúp người" có phải là "chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành" không? Đúng vậy. Nhưng quý vị lại nói: "Để sau này anh ấy cũng giúp lại tôi," thì sự "giúp đỡ" này không còn là thuần thiện nữa, đúng không? Cho nên Sư phụ nói với quý vị, phải chuyển hóa ý thức của mình: "Hôm nay tôi giúp bạn, hoàn toàn không có bất kỳ sở cầu nào," tự tánh của quý vị mới có thể giải thoát, mới có thể thành Phật. Thực ra, loại thứ ba "Trung ấm chuyển thành" này nói về sự giác ngộ của quý vị, bởi vì quý vị không cần trải qua Thân Trung Ấm mà vẫn thành tựu. Nói cách khác, khi quý vị sắp ra đi, thần thức có thể trực tiếp đi lên, không cần phải xuống âm phủ dạo một vòng. Lúc này quý vị hóa thân hồng quang, thân thể như cầu vồng, tự chủ sinh tử, từ đó tiến vào cõi Tịnh Độ an lạc và cõi trời Thường Tịch vắng lặng. Nói cách khác, quý vị dựa vào sự giác ngộ, sự thanh tịnh của chính mình để thành Phật.