Tập 110 – BIẾT VÔ THƯỜNG MỚI CÓ THỂ KHÔNG TRỤ TÂM

  LỜI MỞ ĐẦU

Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:

“Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường. Con xin cảm tạ Bồ Tát”. 


Tập 110 – BIẾT VÔ THƯỜNG MỚI CÓ THỂ KHÔNG TRỤ TÂM

Sư phụ Lư Quân Hoành giảng giải Bạch Thoại Phật Pháp ngày 25/07/2020

“Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (Nên không trụ vào đâu, mà sanh tâm ấy), đây là một cương lĩnh – một cương lĩnh vô cùng quan trọng trong Kinh Kim Cang, có nghĩa là quý vị không trụ tâm. Lấy một ví dụ đơn giản, quý vị giúp đỡ người khác rồi thì đừng để nó trong lòng, tâm sanh ra lúc ấy chính là tâm thanh tịnh. Hôm nay tôi cứu người, nhưng tôi không có cảm giác là mình đang cứu người, thì tâm tôi sanh ra chính là tâm thuần khiết, tâm không vướng bận. Chỉ vì lợi ích của chúng sanh, chỉ cần có thể cứu độ chúng sanh, bất kể là việc gì, dù khổ cực gian nan đến đâu chúng ta cũng đều phải làm, và từ đó sanh ra cái tâm này; chứ không phải là tâm “tôi muốn đi cứu người, hôm nay tôi phải giúp đỡ người khác”. Đây là đã vô ngã tướng rồi, cho nên mới nói “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”. Câu này rất biện chứng, vừa phải an trú trong tâm, nhưng lại không thể sanh ra cái tâm ấy để an trú. Vậy rốt cuộc, tâm như thế nào có thể an trú trong nội tâm, và tâm như thế nào không nên an trú? Câu này chính là nói với chúng ta rằng, bất kỳ tâm nào cũng đều phải không trụ vào đâu cả. Khi quý vị không có tâm, mà cái tâm sanh ra vẫn còn đó, thì đó chính là chân tâm của quý vị.

Sư phụ ở đây xin nêu một ví dụ đơn giản. Hôm nay quý vị thấy Phật đường liền lạy Phật, không hề nghĩ rằng “hôm nay tôi phải đến lạy Bồ Tát Quán Thế Âm, tôi phải cầu xin điều gì”, quý vị quỳ xuống liền lạy Phật, rất tự nhiên lạy bao nhiêu lạy, không cần phải đếm, trong tâm quý vị hoàn toàn biết mình đã lạy bao nhiêu lạy, đã thưa bạch với Bồ Tát những gì, vì ngày nào quý vị cũng làm như vậy. Đây chính là “ưng vô sở trụ” – không trụ vào cái tâm “hôm nay tôi lạy Phật cầu xin Bồ Tát” mà sanh ra cái tâm tự nhiên, đó chính là tâm thuần khiết. Cho nên người học Phật không phải là không làm gì, mà là làm việc nên thuận theo nhân duyên, chứ không nên chấp trước vào một việc nào đó để làm. Ý của Sư phụ muốn nói với mọi người là, bất cứ việc gì cũng hãy tùy duyên, rồi sẽ có nhân duyên của nó; nhưng quý vị không thể nói “ôi, tôi tùy duyên” rồi lại chấp trước vào việc đó, “tôi nhất định phải làm”, như vậy thì cảnh giới của quý vị sẽ không thể nâng cao. Hãy làm một cách tự nhiên, thì tự nhiên sẽ được cảnh giới nâng cao.

Kinh Phật giảng, tất cả nơi, tất cả lúc đều là sự hiển hiện của chân tâm. Điều này cho chúng ta biết rằng tâm của quý vị không nơi nào không có, chỗ nào cũng có mặt. Việc tu tâm của quý vị, cách đối nhân xử thế, việc cứu độ chúng sanh của quý vị, bề ngoài trông như có mặt khắp nơi, nhưng thực ra quý vị đã làm được đến chỗ không ở trong, cũng không ở ngoài, bởi vì đó là “vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Lấy một ví dụ đơn giản, khi quý vị làm một việc gì đó, đừng nghĩ rằng mình làm việc này thì người khác sẽ khen mình tốt. Hôm nay quý vị nghĩ “mình phải trở thành tấm gương lao động”, rồi quý vị đi lau sàn, chùi sàn, thì cái tâm quý vị sanh ra vẫn là tâm ở bên trong; còn tấm gương lao động thực sự là người mỗi ngày đều tự nhiên giúp đỡ người khác, mỗi ngày đều làm việc quét dọn. Cho nên “tất cả nơi, tất cả lúc, tất cả không vướng mắc, gọi đó là tâm”. Tôi không chấp trước vào bất cứ việc gì: hôm nay có việc này thì vui; không có việc này, tôi cũng vui. Đó là tâm không vướng mắc, không chấp trước. Cho nên học Phật, có những lúc quý vị lại không thể mặc kệ mọi thứ, “ôi, tôi buông bỏ rồi, tôi không quan tâm gì hết”, quý vị không thể không có tâm, mà là để quý vị ở mọi nơi mọi lúc đều dùng Phật tâm để hiển hiện.

Đức Phật từng dạy chúng ta, bản thể của vạn vật là Không. Tôi hỏi quý vị, tòa nhà lớn này vài trăm năm sau chắc chắn không còn nữa, đúng không? Một con người mấy mươi năm sau cũng ra đi. Nhưng không phải nói là tòa nhà này không có, cũng không phải nói người này không có, mà ngược lại, chúng ta phải diệu dụng những hiện tượng sở hữu này, rồi dùng trí huệ để lý giải và siêu việt nó, đó chính là diệu dụng của Chân Như Phật Tánh. Điều này nói với chúng ta rằng, biết sự tồn tại của sự vật này, biết bản thể của nó cuối cùng là không, nhưng chúng ta không rơi vào ngoan không (sự trống rỗng hư vô). Ví dụ, có một người đến đơn vị làm việc, lãnh đạo đã nói trước là anh ta đến thực tập ba năm. Trong ba năm đó, quý vị đối xử với anh ta vô cùng tốt. Quý vị nên hiểu rằng ba năm sau anh ta nhất định sẽ rời đi, sau khi rời đi hai người sẽ không còn làm bạn nữa, mọi thứ kết thúc, không còn tình cảm nữa, quý vị phải hiểu những điều này. Nhưng quý vị lại không thể nói “tôi biết ba năm sau chúng ta sẽ không còn thân thiết như vậy nữa”, rồi bây giờ không thèm nói chuyện, “anh đừng kết bạn gì với tôi, tôi không cần anh, vì ba năm sau chúng ta đều là không cả”. Không phải vậy. Biết rằng bản thể của nó cuối cùng là không, “nhưng con không rơi vào cái không đó, con vẫn trong ba năm này tận tâm mà giao tiếp với anh ấy, làm một người bạn tốt với anh ấy”. Làm được như vậy thì quý vị sẽ không chấp trước vào sự việc đó, quý vị đã siêu thoát rồi.

Cuối cùng, Sư phụ xin nêu một ví dụ. Việc giáo dục con cái, cuối cùng bản thể cũng là không. Quý vị nghĩ xem có đúng không? Chúng ta giáo dục một đứa trẻ, ngày nào cũng nói với nó “con lớn lên phải ngoan nhé, con phải hiểu chuyện nhé”, bởi vì khi đứa trẻ lớn lên, khi nó hiểu chuyện rồi thì nó là không tánh, nó sẽ rời xa quý vị. Việc này đến cuối cùng, cả con cái và cha mẹ đều là không tánh, cha mẹ và con cái không thể nào ở bên nhau cả đời được. Cho nên khi giáo dục con cái, chúng ta hãy tận tâm tận lực giáo dục chúng, chứ không phải chấp trước, “ôi, con phải ngoan, con nhất định phải thi đỗ đại học, làm tiến sĩ, làm giáo sư, sau này bố mẹ đều trông cậy vào con”. Quý vị chấp trước như vậy, lỡ đứa trẻ không đỗ tiến sĩ, không làm được giáo sư, sẽ làm tổn thương chính mình, cũng làm tổn thương đứa trẻ, vì không phải đứa trẻ nào cũng có thể trăm luyện thành thép. Đừng chấp trước mà giáo dục con, “con nhất định phải thế này, nhất định phải thế kia”, quý vị phải học cách buông bỏ, đừng chấp trước. Nhưng ngược lại, con cái thì bắt buộc phải giáo dục, quý vị không thể không giáo dục nó. Cho nên quý vị phải mượn phương Pháp, thời gian giáo dục con cái để cảm hóa nó thật tốt, vừa phải làm tốt việc này, lại vừa không được rơi vào ngoan không, như vậy là quý vị có trí huệ.

Học Phật không nên định vị trên sự chấp trước của bản thân, “tôi là người cố chấp, tôi là người không buông bỏ được, tôi là người nghiêm túc”. Những điều này đều là quý vị đang tự định vị sự chấp trước cho mình, quý vị sẽ chấp trước ngay trên cái định vị đó. Đôi khi không có những khái niệm này, ngược lại quý vị sẽ không chấp trước. Nhiều người hay nói “thấy chưa, tôi là người như vậy đó”, thế là xong, “là như vậy”, quý vị sẽ thật sự trở thành như vậy, bởi vì quý vị đã rơi vào một khái niệm rồi. Cho nên Phật Pháp dạy chúng ta tùy duyên, chứ đừng liều mạng truy cầu cái gốc rễ hư ảo của thế gian. Độ người cũng phải dựa vào căn cơ của chúng sanh mà dùng những diệu Pháp khác nhau để cứu họ. Người có thể cứu được chính là người có duyên với Phật, có thể trực tiếp chỉ dạy cho họ. Nếu chúng sanh này có duyên với tông phái hay Pháp môn nào, thì nên dùng tông phái và Pháp môn đó để dạy cho họ phương Pháp tu hành, như vậy quý vị có thể khơi dậy căn cơ của họ, vì nhân duyên của họ là như vậy. Nếu cứ một mực kéo họ về Pháp môn của mình, quý vị có thể đã đi ngược lại với diệu dụng của Phật Pháp.

Cho nên, điều thực sự cần làm là không trụ tâm, tâm không nên tùy tiện đặt một thứ mang tính khái niệm vào trong Bát Thức Điền của mình, lâu ngày nó sẽ lên men ở trong đó. Bởi vì điều thiện sẽ trở nên tốt hơn, còn điều ác trong Bát Thức Điền của quý vị sẽ sinh ra hạt giống ác. Mong mọi người hãy tinh tấn học Phật, tinh tấn tu tâm. Lần sau, Sư phụ sẽ nói với mọi người về việc, trong Bát Thức Điền, con người nên làm thế nào để tiêu trừ những phiền não đó, làm thế nào để dùng những Phật quang tốt lành bao bọc lấy ý thức chân chính. Được rồi, buổi chia sẻ «Bạch Thoại Phật Pháp» hôm nay đến đây là kết thúc. Cảm ơn quý vị.

Hôm nay, cuối cùng Sư phụ xin kể hai câu chuyện ngắn.

Vào những năm cuối đời của Đức Phật, điều khiến Ngài đau buồn và thương tâm nhất chính là hai vị đệ tử thủ tọa của Ngài (tức là khi Đức Phật khai thị, các vị ngồi ở giữa, khi thăng tòa thì có thủ tọa ở hai bên, là những đệ tử ngồi cạnh Ngài) là Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả Mục Kiền Liên đều lần lượt nhập Niết Bàn trước Đức Phật (tức là ra đi trước). Khi Tôn giả Xá Lợi Phất trở về quê hương và nhập Niết Bàn, thực ra Đức Phật cũng rất đau buồn. Đệ tử của Tôn giả Xá Lợi Phất là Sa di Quân Đầu, vô cùng thương tâm ôm xá lợi của thầy mình về gặp Đức Phật.

Đức Phật liền khai thị cho Sa di Quân Đầu rằng: “Quân Đầu, thầy của con đã nhập diệt rồi, vậy vô lậu giới định công đức và trí tuệ sâu rộng của thầy con có theo đó mà tiêu diệt không?”

Quân Đầu khóc và trả lời: “Dạ không ạ.”

“Nếu như tất cả khổ đau của sinh tử đã diệt mất, mà tất cả công đức thanh tịnh đều không mất đi, vậy tại sao con lại phải khóc lóc?”

Quân Đầu suy nghĩ: “Đúng vậy, nhục thân của thầy tuy đã hoại diệt, nhưng công đức của thầy vẫn còn mãi nơi nhân gian, Pháp hỷ tràn đầy vũ trụ.” Ngay lúc đó, ngài liền ngộ ra và nín khóc.

Điều này cho chúng ta biết, ý nghĩa thực sự của cuộc đời nên là tạo ra sinh mệnh kế thừa cho vũ trụ. Chúng ta sống trên thế gian này, phải hiểu rằng sinh mệnh là ngắn ngủi, nhưng sự nghiệp và lý tưởng cứu độ chúng sanh mà chúng ta làm ra thì sẽ trường tồn vĩnh cửu. 2500 năm trước, Đức Phật đã thị hiện Phật quang phổ chiếu, cho đến ngày hôm nay vẫn đang soi rọi cho quảng đại chúng sanh học Phật chúng ta, chỉ lối cho chúng ta trên con đường tiến về phía trước.

Thời Đức Phật có một người phụ nữ tên là Kiều Đàm Di, bà có một người con trai vô cùng yêu quý nhưng đã qua đời chỉ vài ngày sau khi sinh. Mất đi người con yêu dấu, bà vô cùng đau khổ, ôm thi thể con đi khắp nơi tìm cách cứu con sống lại. Có người thấy bà quá đau buồn, bèn nói với bà rằng: “Có một bậc trí giả tên là Phật Đà, có lẽ Ngài có phương Pháp chữa trị cái chết.”

Thế là bà Kiều Đàm Di tìm đến nơi ở của Đức Phật, khóc lóc kể lể nỗi đau trong lòng mình.

Đức Phật nói với bà Kiều Đàm Di rằng: “Chỉ cần con có thể dùng lửa từ một gia đình chưa từng có người qua đời để thắp một nén hương, mang nén hương đó đến gặp Ta, Ta sẽ có thể giúp con của con sống lại.”

Bà Kiều Đàm Di nghĩ: “Ôi, chỉ là đi xin lửa thắp một nén hương, việc này dễ quá.” Bà vui mừng khôn xiết, vội vàng cầm nén hương đi vào thành, đến từng nhà để tìm lửa từ một gia đình chưa từng có người qua đời.

Thế nhưng, nhà nào cũng nói với bà: “Tôi rất sẵn lòng giúp bà, thắp hương cho bà, nhưng rất xin lỗi, nhà tôi đã có người qua đời.”

Sau một hồi tìm kiếm, bà Kiều Đàm Di tự mình khai ngộ. Bà cuối cùng đã hiểu ra rằng, cái chết là con đường mà ai cũng phải đi qua, là điều không thể tránh khỏi, không có gì đáng để bi thương, bởi vì vô thường chính là chân lý của thế gian. Bà Kiều Đàm Di liền ngưng đau buồn, xuất gia tu hành, và cuối cùng chứng nhập Niết Bàn bất sinh bất diệt (nếu nhập Niết Bàn thì về cơ bản có thể đến Thanh Văn đạo, Duyên Giác đạo).

Thực ra ở nhân gian, chúng ta không cần phải đợi đến lúc chết, vô thường luôn ở ngay bên cạnh chúng ta mọi lúc mọi nơi. Tai nạn giao thông bất ngờ bên cạnh là vô thường, bệnh tật là vô thường. Quý vị chỉ cần quan sát những người, những việc, những vật đến rồi đi trong cuộc sống, quý vị sẽ phát hiện ra rằng, mọi việc trong cuộc sống chẳng qua đều là vô thường (đều là “phi thường”, không bình thường nên gọi là “phi thường”). Khi chúng ta chấp trước vào một sự vật nào đó, chúng ta sẽ quen lầm tưởng rằng sự vật đó là thường hằng, là có thật. Khi bị bệnh thì nghĩ rằng bệnh sẽ không khỏi, ý chí suy sụp, thực ra nó cũng là vô thường, vì quý vị bị bệnh rồi, vô thường sẽ làm cho bệnh của quý vị khỏi, tức là một thời gian sau bệnh sẽ khỏi. Tương tự, lúc vui vẻ nó cũng là vô thường, vì vui vẻ một thời gian, tiếp theo nó sẽ mang đến cho quý vị khổ đau. Cho nên khi niềm vui biến mất, quý vị sẽ cảm thấy trống rỗng cô đơn, vì vô thường đã đến, quý vị sẽ cảm thấy thật đau khổ. Vì không biết vô thường, mà cuộc đời của chúng ta tràn đầy đau khổ.

Cho nên Sư phụ muốn quý vị hiểu rõ vô thường, biết vô thường, phải hiểu được chân tướng của sinh mệnh, đó là chúng ta phải nỗ lực cứu độ chúng sanh, men theo bước chân của Đức Phật mà vững bước tiến về phía trước. Chúng ta phải làm người tốt, làm việc tốt, chúng ta phải thay đổi chính mình. Mỗi ngày thay đổi sẽ mang lại cho quý vị ánh sáng mới, mỗi ngày giác ngộ sẽ giúp quý vị có được một ngày mai tốt đẹp. Học Phật không phải dựa vào Sư phụ, học Phật là dựa vào sự giác ngộ. Mong rằng mỗi đứa con học Phật đều có thể giác ngộ, đều có thể thấu hiểu nội tâm chân thật của mình. Phải học cách kiểm soát bản thân, thấu hiểu bản thân, thì quý vị mới có thể thấu hiểu người khác, quý vị mới sanh ra ngộ tính. Người biết nỗi đau của người khác thì bản thân mình cũng sẽ đau. Khi quý vị thấu hiểu người khác, quý vị sẽ có ngộ tính; khi quý vị thường xuyên suy nghĩ “mình còn tham, sân, si, mạn, nghi không”, thường xuyên kiểm điểm những tật xấu này của mình, ngộ tính của quý vị sẽ theo đó mà tăng trưởng. Hy vọng mọi người mỗi ngày hãy quan sát xem mình có tham, sân, si không, có làm sai điều gì không. Việc kiểm điểm mỗi ngày sẽ khiến quý vị trí tuệ tràn đầy, sẽ khiến quý vị giác ngộ cuộc đời.

Cảm ơn quý vị. Buổi chia sẻ hôm nay đến đây là kết thúc. Chúng ta sẽ gặp lại trong chương trình lần sau.

>> Tập 111
Mới hơn Cũ hơn