Tập 113 – TRI GIÁC LÀ GỐC RỄ CỦA TÂM NIỆM

  LỜI MỞ ĐẦU

Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:

“Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường. Con xin cảm tạ Bồ Tát”. 


Tập 113 – TRI GIÁC LÀ GỐC RỄ CỦA TÂM NIỆM

Sư phụ Lư Quân Hoành giảng giải Bạch Thoại Phật Pháp ngày 1/8/2020

Tâm niệm của quý vị chân chánh, có cảm giác, thì khi quý vị nhìn bất cứ sự vật và con người nào, cũng đều sẽ có linh tri linh giác. Giống như khi chúng ta thấy một đứa trẻ, chúng ta đặc biệt yêu thích và nói: "Đứa trẻ này thật đáng yêu, trông có vẻ rất có linh khí", thực ra là do quý vị có linh khí. Cho nên có một câu thường nói: Quý vị thấy người khác như Bồ Tát, thì quý vị nhất định là Bồ Tát.

Tri giác chính là một tấm gương soi rọi, giúp chúng ta có thể chạm đến ánh sáng của lương tri bản tánh. Vì vậy, học Phật thật sự cần dựa vào trí tuệ, không phải chỉ đơn giản là lạy Phật, niệm Kinh, lau chùi trái cây, lau nhà. Bởi vì con người trong quá trình tu hành có rất nhiều vọng tưởng, hơn nữa còn có từ vô lượng kiếp. Từ vô thủy kiếp đến nay, biết bao nhiêu người luân hồi trong lục đạo mà không thoát ra được, bởi vì họ đã điên đảo vọng tưởng trong bao nhiêu kiếp luân hồi, họ đã xem thế giới này là thật trong bao nhiêu đời. Quý vị hãy nghĩ xem, lúc còn nhỏ, có phải quý vị đã xem mọi chuyện của mình đều là thật không? Bây giờ quý vị nhìn lại xem, tất cả những chuyện đó ngày hôm nay có phải đều là giả không? Vì chúng đã qua đi, đã không còn nữa. Cho nên, đối với thế giới hư ảo mà "lục tặc" là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tiếp xúc được, chúng ta phải nhận rõ nó là hư ảo, không thật, không thể xem nó là thật, nếu không chính là "nhận giặc làm cha". Quý vị xem, có chuyện nào không phải là do "lục tặc" làm hại chúng ta? Mắt nhìn thấy rồi, tức giận không chịu nổi; tai nghe người khác nói rồi, tức giận không chịu nổi... Mọi chuyện đều có nguyên nhân của nó.

Nếu một vị thầy xem đệ tử là tài sản riêng của mình; nếu vị thầy này để đệ tử quy y mình rồi nói các vị thầy khác đều không tốt; nếu đệ tử quy y một vị thầy khác, vị thầy cũ liền xem người đó như kẻ phản đồ, thì bản thân vị thầy như vậy chính là vì danh văn lợi dưỡng. Vị thầy đó đang chấp thủ vọng niệm, đang hoằng Pháp trong vọng niệm, trong vọng tưởng. Vì vậy, người có trí tuệ thật sự phải học theo Phật – Ngài từ ái bình đẳng, đối với tất cả chúng sinh đều như nhau. Hãy nhìn xem Bồ Tát Quán Thế Âm vĩ đại của chúng ta, Ngài đại từ đại bi, tuỳ duyên độ chúng, đối với sự vật và chúng sinh cõi nhân gian chưa bao giờ phân biệt thân sơ.

Chúng ta không có niệm tham ái đối với thế gian, chính là buông bỏ chấp trước; quý vị tham ái một người nào đó, một việc gì đó, chính là quý vị đang chấp trước. Tâm phải giống như Phật, quý vị mới có thể xử thế viên dung, Phật tánh mới không bị ngăn ngại. Thiện tri thức chính là tấm gương để chúng ta học hỏi. Kinh văn lời dạy của Bồ Tát, cùng với Phật, Pháp, Tăng, là để chúng ta dùng chánh niệm chánh tín mà học tập Phật Pháp. Tu hành chịu khổ chính là một phương Pháp học Phật. Người khác thấy chúng ta khổ, nhưng bản thân chúng ta lại Pháp hỷ sung mãn. Phải khổ tu để rèn luyện ý chí của mình, hiểu rằng phải tiêu trừ nghiệp chướng. Chịu khổ càng nhiều, tiêu nghiệp càng nhiều. Rèn luyện trí tuệ của bản thân, không chấp trước, mới có thể tu ra Bát-nhã. Hãy để cho tất cả vô minh dần dần tan biến, thì mới có thể sở hữu trí tuệ Bát-nhã của Phật Pháp.

Sau đây, Sư phụ sẽ kể cho quý vị nghe một câu chuyện.

Ngày xưa ở nước Ma-kiệt-đà (Magadha) tại Ấn Độ, Vua A-dục (Ashoka) đã từng nói: "Cả đời này của ta không có việc gì là không làm được." Quả thật, từ nhỏ lớn lên trong hoàng cung, Vua A-dục từ khi sinh ra đã "cơm dâng tận miệng, nước rót tận tay", mọi việc lớn nhỏ đều có thị thần, nô tỳ lo liệu chu đáo. Cho đến khi trưởng thành lên ngôi vua, ngài đã sáng lập nên vương triều Khổng Tước (Maurya), dẫn quân nam chinh bắc phạt, công đâu thắng đó, đánh đâu được đó. Vì thế, vua của các nước lớn nhỏ khắp nơi đều cúi đầu xưng thần (nguyện ngài là hoàng đế, chúng tôi là thần dân). Vùng đất trong vòng hai mươi tám vạn dặm đều thuộc về Vua A-dục. Câu nói của Vua A-dục quả thật danh xứng với thực, ngài thực sự rất lợi hại.

Thế nhưng Vua A-dục lại thở dài một tiếng, tự nói: "Than ôi, chỉ có Long vương ở trong hồ phía bắc là không chịu quy hàng ta." Đây là vấn đề khiến Vua A-dục đau đầu nhức óc, bởi vì ở phía bắc vương quốc có một cái hồ rộng hơn ba trăm dặm, nơi một vị Long vương trú ngụ. Do ngày đêm cúng dường một phần xá-lợi của Phật, nên Long vương có thần lực uy đức rất lớn. Vua A-dục đã ba lần dẫn quân, gồm bốn binh chủng tượng, mã, xa, bộ đến chinh phạt, nhưng đều không thành công.

Lúc đó, Vua A-dục bèn nghĩ: "Chắc hẳn công đức cúng dường xá-lợi Phật của Long vương vượt hơn ta, khiến cho trẫm đã dùng hết mọi cách mà Long vương vẫn xem thường sự tồn tại của ta (tức là không cho rằng ta có thể chiến thắng ông ta)." "Người đâu! Mau mau xây dựng tháp miếu, trai tăng cúng Phật, cúng dường Tam Bảo. Trẫm muốn bồi đức trồng phước." Vua A-dục ra lệnh xây chùa, xây tháp, rồi cúng dường tăng nhân, cúng dường Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng. Dưới sự thúc giục gấp rút của Vua A-dục, khắp nơi trong nước đều bắt đầu xây dựng chùa chiền, thiết lập đàn tràng mời cao tăng giảng kinh thuyết Pháp, khiến cho toàn dân đều được thấm nhuần mưa Pháp, cùng sinh niềm vui trong Chánh Pháp. Trong một thời gian, tăng ni qua lại không ngớt, trong nước ai ai cũng Pháp hỷ sung mãn, được lợi ích to lớn. Cả một vùng đều tràn ngập niềm vui Chánh Pháp.

Qua một thời gian, Vua A-dục thầm nghĩ: "Không biết bây giờ cơ duyên xuất chinh đã chín muồi chưa? Ta cũng đã làm nhiều công đức như vậy rồi. Phước đức của trẫm và phước đức của Long vương, bây giờ phải xem xem rốt cuộc bên nào lớn hơn?" Vua A-dục vốn rất thông minh đa trí, lại rất giỏi ứng biến. Chẳng bao lâu, ngài nghĩ ra một diệu kế tuyệt vời: ngài dùng vàng với khối lượng như nhau để đúc một pho tượng của chính mình, và một pho tượng của Long vương (rất nhỏ), rồi đặt riêng lên hai đầu của một cái cân. Vì khi đúc, trọng lượng vàng là như nhau, nên ngài đặt lên hai bên để cân. Vừa đặt lên, lần cân thứ nhất, tượng Long vương nặng hơn, tượng vua nhẹ hơn. Tức là đầu cân bên Long vương nặng hơn, chùng xuống, còn đầu cân của Vua A-dục thì nhẹ hơn. Vua A-dục nhíu mày, rồi hạ lệnh: "Người đâu! Tiếp tục đại bố thí, mời các vị cao tăng thuyết Pháp." Ngài lại tiếp tục làm công đức lớn hơn nữa.

Không lâu sau, ngài lại cân một lần nữa. Không ngờ lần này vừa cân, hai đầu cân vàng đã thăng bằng, nặng bằng nhau. Vua A-dục nở một nụ cười: "Ừm, xem ra quyết định của ta là đúng. Quan lương, hãy mở kho lương, cứu tế cho những người nghèo khổ cô độc không nơi nương tựa trong nước." Ngài lại làm việc thiện nữa.

Lại qua một thời gian, Vua A-dục với tâm trạng hồi hộp lo âu, lại đặt hai pho tượng vàng lên hai đầu cân. Khi ngài thấy pho tượng chân dung của mình chìm xuống, ngài phá lên cười ha hả, vui mừng khôn xiết tuyên bố chuẩn bị xuất chinh. Ngài nói với quân đội bên dưới: "Đi thôi! Chúng ta đi đánh Long vương. Lần này nhất định sẽ đại thắng trở về."

Lúc đó, Vua A-dục dẫn đầu mười vạn đại quân, có xe ngựa, tiến thẳng một đường. Đi được nửa đường, bỗng thấy xa xa dường như có người, một đoàn người ngựa đang chặn giữa đường. Chẳng mấy chốc, tướng lĩnh của đội tiền phương vung roi ngựa, vội vã quay về báo cáo với Vua A-dục đang ở giữa đoàn quân: "Đại vương! Long vương và quyến thuộc lớn nhỏ của tộc rồng đã đợi sẵn ở phía trước từ lâu, chuẩn bị xin hàng." Vua A-dục bèn thúc ngựa nhanh chóng tiến lên, xuống ngựa đỡ Long vương đang quỳ trên đất dậy, và nhận lấy xá-lợi Phật mà Long vương dâng cúng. Từ đó về sau, Vua A-dục dùng tâm cung kính để cúng dường xá-lợi Phật, và cho xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp, hoằng dương Phật Pháp, quảng bá Đại thừa không ngừng nghỉ.

Câu chuyện này muốn nói với chúng ta rằng, Tam Bảo ở thế gian, hoằng dương Phật Pháp đến mười phương, để chúng sinh có thể nhận thức chân lý, mới có thể đạt được lợi ích giải thoát xuất thế. Đây là phước điền tối thượng nhất ở nhân gian. Sống trên đời này, người học Phật phải làm sao để trở thành một người không hổ thẹn với chúng sinh, làm sao để giúp đỡ được người khác. Quý vị phải cúng dường Tam Bảo, phải cung kính, thì quý vị sẽ nhận được phước báu vô lượng. Quý vị cúng dường Tam Bảo, quý vị sẽ gặp được Chánh Pháp. Người khác thấy những việc quý vị làm, họ sẽ tôn trọng quý vị, quy phục quý vị. Vì vậy, chúng ta phải nắm bắt nhân duyên, tinh tấn nỗ lực, gieo trồng phước điền rộng lớn, mới có thể sớm ngày chứng đắc, sớm ngày thành tựu đạo nghiệp.

Chúng ta làm người, tu hành cả một đời mới có ý nghĩa. Đời người chính là như vậy, nếu quý vị không tu hành cho tốt, đến khi quý vị hiểu ra thì sinh mệnh cũng sắp tàn rồi. Cho nên phải tinh tấn tu hành, khi con người trong sạch rồi, thì thân, khẩu, ý sẽ thanh tịnh. Thân thể, ý niệm của Phật đại diện cho Phật tánh. Tại sao nói mở miệng ra là Phật Pháp? Vì thân khẩu ý của quý vị chính là Phật tánh. Cho nên hãy tương ứng với thân khẩu ý, nỗ lực thay đổi bản thân, để sinh ra trí tuệ.

Ngày xưa trong giới Phật Pháp có câu "Hộ đoản tâm nội phi hiền", có nghĩa là khi quý vị phạm sai lầm mà lại che giấu khuyết điểm, tìm lý do, không thừa nhận, dùng trăm phương ngàn kế để chống chế cho việc làm sai trái của mình, thì "tâm nội phi hiền" – trong tâm quý vị không phải là người hiền đức, quý vị là người không có tu dưỡng. Tại sao Sư phụ bảo quý vị đừng tìm lý do? Vì trên thế giới này chỉ có nhân quả. Nếu có thể nhìn vào bản thân mình mỗi ngày như cách quý vị nhìn vào khuyết điểm của người khác, thì quý vị đã đang tiến bộ rồi.

Hôm nay Sư phụ chia sẻ với quý vị đến đây. Xin cảm ơn đại chúng.

>> Tập 114
Mới hơn Cũ hơn