LỜI MỞ ĐẦU
Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:
“Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường. Con xin cảm tạ Bồ Tát”.
Tập 37
CHÚ TRỌNG KHÔNG TÁNH. BÁT NHÃ DIỆC NHIÊN
(08/04/2020)
Phải Trung Quán Chánh Kiến, đối với sự trống rỗng trên thế giới này, không thể luôn cho rằng “Dù sao thì nó cũng trống rỗng, dù sao cũng không có nhà, đồ gia dụng cũng không cần nữa, cái gì tôi cũng không cần, tôi sao cũng được”, thế thì người này chính là thiên chấp (Cố chấp nghiêng về một mặt nào đó mà không thấy rõ được mặt khác). Vì vậy, nếu không muốn đi sai hướng thì phải Trung Quán Chánh Kiến, mượn giả tu thật. Ở nhân gian, là trống rỗng sao? Là trống rỗng, nhưng lại không phải hoàn toàn trống rỗng, mà sự trống rỗng này là trống rỗng giả tạo, là cái thân thể giả, và là vật chất giả tạo mà chúng ta tạm thời mượn dùng, nó không phải là sự sở hữu hoàn toàn, cũng không thể mang đi và cũng sẽ không vĩnh cữu. Vì vậy, những thứ hư không này không thể ảnh hưởng đến sự trống rỗng của bổn tánh. Suy cho cùng, Bát nhã là tánh Không, khi quý vị hoàn toàn hiểu được trí tuệ của thế giới này và hiểu được trí tuệ của Đức Phật, thì quý vị sẽ hiểu được tánh Không thực sự là gì. Làm thế nào có thể đạt được sự trống rỗng này trong tâm mình? Ví dụ, một số người thích thiền, và họ ngồi thiền để: “trống rỗng, trống rỗng, trống rỗng…” trong đầu họ luôn nghĩ đến phải trống rỗng: “Tôi muốn trống rỗng, tôi muốn trống rỗng…” Nhưng suy nghĩ của họ có thể trống rỗng được không? Tạp niệm tràn lan: Nước sôi chưa? Lát nữa phải đi đón con; Tối nay còn thứ gì chưa mua… có rất nhiều người khi đang niệm kinh, thì sẽ nghĩ đến nhiều việc vẫn chưa làm, vốn dĩ là do lúc bận rộn vẫn chưa nghĩ ra được, nhưng vừa ngồi xuống niệm kinh lại nhớ ra tất cả: “Tôi đã quên mất điều này, tôi đã quên mất điều kia…”. Thực ra những việc cũng giống như lá trà lắng xuống, con người trong khoảnh khắc lắng đọng sẽ có rất nhiều suy nghĩ xuất hiện. Bởi vì quý vị bận rộn tìm kiếm sự trống rỗng mỗi ngày, nên quý vị đang bận rộn một cách vô ích.
Không tánh thực sự là gì? Sự trống rỗng này không thể cầu mà có được. Quý vị đã bận rộn trong một thời gian dài cố gắng tìm kiếm sự trống rỗng, nhưng sự trống rỗng này không phải là thứ mà quý vị cầu là có được, mà là một tính chất vốn có tự thân. Chính “Tánh Không” làm cho quý vị trống rỗng, chứ không phải quý vị làm trống rỗng nó. Cũng có nghĩa là, nếu một người muốn buông bỏ hoàn toàn, thì tự nhiên sẽ buông bỏ được, nó dần dần sẽ trở nên trống rỗng, và tánh không liền xuất hiện rồi; trong suy nghĩ không còn có tạp niệm, không còn ý niệm, không còn đủ thứ vọng tưởng hư ảo và vọng niệm trong đó, thì lúc này sự trống rỗng sẽ đến với quý vị; Mà không phải là những tạp niệm hay ý niệm tràn ngập trong suy nghĩ của quý vị. Khi quý vị chỉ nghĩ đến những vọng tưởng trong đầu, “Con khấn xin, xin Bồ Tát cho con được trống rỗng, trống rỗng, không có tạp niệm”. Vậy thì quý vị bận rộn đến cuối cùng sẽ “bận vô ích”. Quý vị phải hiểu được đạo lý này, khi quý vị hiểu được đạo lý rằng, “Tôi không thể tìm kiếm tánh Không”, mà phải khiến bản thân buông bỏ mọi tạp niệm và làm như vậy đến khi tâm mình trở nên tự nhiên, thì sẽ tự nhiên trống rỗng. Hiện tại mọi người đang nghe Sư phụ diễn giảng, có một số người rất nghiêm túc nhưng có một số người đầu óc vẫn chưa trống rỗng và họ vẫn đang lắng nghe Sư phụ đang giảng gì; Có người trống rỗng tự nhiên, khi nghe Sư phụ giảng đến đoạn diệu pháp này sẽ nghĩ: “Thật hay, Sư phụ giảng đạo lý Phật pháp bằng bạch thoại dễ hiểu và rất hay”. Khi không nghĩ gì đến việc khác thì sẽ “tự nhiên trống rỗng”. Trong khi đó, thì nhiều người đang có suy nghĩ: “Sau này trong cuộc sống tôi cần phải trống rỗng, tôi phải vâng lời, tôi phải tiêu trừ những tạp niệm và vọng niệm”, vậy thì quý vị vẫn đang còn ở trong những tạp niệm và vọng niệm. Quý vị cầu xin sự trống rỗng như thế này, thì làm sao có thể trống rỗng được đây?
Chúng ta phải hiểu rằng, tâm chúng ta không trống rỗng là điều bình thường, và tâm chúng ta trống rỗng cũng là điều bình thường. Bởi vì khi quý vị cảm nhận được sự trống rỗng, thì quý vị không phải trong sự trống rỗng; khi quý vị không cảm thấy trống rỗng mà trống rỗng một cách tự nhiên, thì thực ra những tạp niệm của quý vị sớm đã chạy mất rồi. Người học Phật học đến sau cùng sẽ có được trí tuệ. Chẳng hạn, nếu người loạn niệm nói với quý vị về một số vấn đề tầm thường trong cuộc sống, người đó sẽ khiến quý vị vô cùng buồn bực và chán nản giống như họ, lúc này thì quý vị đã bị cuốn vào suy nghĩ của họ rồi, tức là không còn trống rỗng nữa. Khi đó, quý vị sẽ nghĩ trong đầu: “Tôi không muốn nghe anh ấy nói, tôi muốn trống rỗng, tôi muốn trống rỗng, tôi không muốn theo…”. Điều đó có nghĩa là quý vị đang xua đuổi sự trống rỗng của chính mình. Khi quý vị hoàn toàn quên lãng và đã buông bỏ, trong lòng không còn chuyện này nữa, thì tự nhiên quý vị sẽ không có cảm giác như thế. Cho nên Sư phụ nói với mọi người, không phải là quý vị làm trống rỗng nó, mà là nó tự nhiên làm cho quý vị rỗng không hoàn toàn, biến thành một loại Không Vô trọn vẹn hiện hữu màu nhiệm trong tâm quý vị.
Nhiều người đã đi ngược đường trong hành trình tìm kiếm sự trống rỗng. Ngược đường là gì, có nghĩa là đi theo hướng ngược lại, lẽ ra họ phải đi con đường này, nhưng họ lại không đi. Nhiều người đã học lệch và nói rằng: “Phật giáo đều nói về tánh Không. Dù sao thì cuối cùng cũng sẽ trống rỗng. Bây giờ tôi cũng trống rỗng rồi”. Làm sao trống rỗng đây? “Tôi không quan tâm đến bất cứ điều gì, tôi không muốn bất cứ điều gì nữa”. Đó là sự sai lệch, không phải là gốc rễ của trống rỗng. Chỉ bằng cách hiểu được nguồn gốc của tánh Không, thì quý vị mới có thể thực sự được giải thoát. “Nguồn gốc Tánh Không” nghĩa là gì? Khi chúng ta sống ở thế giới này, chúng ta rất muốn khiến suy nghĩ và ý niệm của mình dừng lại. Thực ra, sư phụ nói cho mọi người biết là không thể dừng lại được. Chỉ bằng cách loại bỏ tất cả những điều này, không suy nghĩ về nó, vô quái ngại, thì quý vị mới có thể tìm thấy được sự trống rỗng ban đầu trong trường thức thứ chín. Khi quý vị nghĩ không thông, thì quý vị đã bị cái cảm giác suy nghĩ không thông này giữ lại rồi; khi quý vị phiền não, thì quý vị đã đem sự phiền não này giữ lại trong lòng; khi quý vị đau khổ, thì sự trống rỗng này sẽ không thể rỗng không được nữa, bởi vì thức thứ bảy và thức thứ tám của quý vị đã che đậy sự trống rỗng ban đầu của quý vị mất rồi.
Làm thế nào chúng ta có thể tiếp xúc được với tánh Không nguyên sơ? Trên thực tế những cảm nhận về sự đau khổ và phiền não, gọi là “thọ ấm”, đây cũng là gốc rễ của nghiệp lực. Bởi vì quý vị phiền não nên đã tiếp nhận một số năng lượng tiêu cực, mà những năng lượng tiêu cực này có nghiệp chướng và nghiệp chướng của chúng rất nặng nề, quý vị sẽ bị đau khổ trói buộc và bị sức mạnh của năng lượng tiêu cực này trói buộc, nếu không thoát ra được thì quý vị sẽ có nghiệp chướng. Vì vậy, những người suy nghĩ không thông sẽ bị những nghiệp này quấy nhiễu.
Đôi khi, có rất nhiều người nói rằng “Tôi muốn trống rỗng” và nương nhờ vào ngồi thiền, họ cảm thấy thiền rất tĩnh lặng. Ngồi thiền quả thực sẽ khiến quý vị trống rỗng, nhưng rất nhiều người khi ngồi thiền vẫn nghĩ trong đầu rằng: “Tôi muốn có cảnh giới tĩnh lặng. Dù hôm nay tôi có thiền, tôi cũng muốn được tĩnh lặng và trống rỗng”. Vậy thì quý vị vẫn đang tìm kiếm Không Tánh và vẫn còn đang “thọ ấm”.
Nếu quý vị ngồi thiền mà không hề nghĩ đến điều gì thì quý vị đang thiền, lúc này quý vị không suy nghĩ về bất cứ điều gì, ngày cả ý nghĩ đang thiền cũng không có, thậm chí đến ý nghĩ “Tôi muốn trống rỗng và yên tĩnh” cũng không có. Có phải là quý vị đã bước vào Không tánh rồi không? Khi quý vị nghĩ về những điều này, trên thực tế quý vị đã bị tán loạn tạp niệm. Khi thiền, nếu quý vị nghĩ: “Hôm nay tôi thiền để tiêu trừ rất nhiều những việc phiền não của tuần trước” thì quý vị sẽ không thể giải thoát được. Nhưng khi thiền đến lúc quý vị cảm thấy trống rỗng, “Tôi bây giờ không còn nghĩ gì rồi, tôi ngồi thiền ngồi đến trống rỗng rồi”. Thì quý vị lại bị chấp tướng rồi, bởi vì quý vị bị vướng mắc bởi hình tướng của rỗng không. Cho nên, học Phật niệm kinh khó vô cùng, nếu hôm nay quý vị nói: “Tôi đã đạt được thiền định, tôi không còn tạp niệm nữa rồi”, thực ra những tạp niệm đó vẫn còn trong tâm quý vị, bởi vì dù miệng quý vị nói như vậy nhưng trong lòng vẫn còn đang nghĩ: “Tôi không còn tạp niệm nữa rồi”. Khi quý vị đang nghĩ về những tạp niệm này thì nó có ở trong tâm quý vị không?
Một trăm phần trăm nó ở trong tâm quý vị. Giống như nhiều bạn trẻ khi yêu nhau nói rằng: “Tôi không cần anh ấy nữa. Thôi, anh ấy không cần tôi và tôi cũng không cần anh ấy nữa. Tôi đã quên anh ấy từ lâu rồi”. Quý vị nói xem đã quên chưa? Một lúc sau có người khuyên cô ấy: “Bạn đừng đau khổ nữa, hãy quên anh ấy đi”. Cô ấy trả lời: “Tôi thậm chí còn chưa nghĩ đến anh ấy”. Vậy thì nói xem trong lòng cô ấy có người bạn trai này không? Vậy, giải pháp thực sự để “trống rỗng” chính là hoàn toàn không tồn tại bất kỳ một ý thức gì. Tánh Không thực sự chính là vô thức, không có bất kỳ một ý thức nào có thể cưỡng ép bản thân phải đạt được không tướng, ngay cả không tướng cũng phải biến mất, nếu không vẫn chưa thể trống rỗng. Quý vị nói quý vị trống rỗng rồi, cảm thấy thanh tịnh rồi, nhưng còn đang nghĩ đến “thanh tịnh”, vậy thì quý vị vẫn chưa thể trống rỗng. Nếu quý vị tự nói trong lòng: “Tôi đã quên chuyện này rồi”, thì chuyện này vẫn còn trong tâm trí quý vị. Có người hỏi quý vị: “Bạn quên chuyện này rồi à?” Quý vị đáp: “Là chuyện gì vậy?” Nếu quý vị thực sự không thể nhớ được thì đó mới thực sự gọi là “Không Tánh”.
Phật pháp thật sự là vi diệu, 2500 năm trước Đức Phật đã lấp đầy trí tuệ trong tâm mỗi chúng ta, khiến chúng ta được giải thoát và hiểu được thế giới này là Khổ – Không – Vô Thường, để cho chúng ta sớm thoát khỏi phiền não, tức là để chúng ta sớm ngày được thoát ly khỏi sáu cõi luân hồi và cùng nhau leo lên Tứ Thánh đạo (cộng phán Tứ Thánh).
Kể cho mọi người nghe một câu chuyện. Tại đất nước Câu Lưu có 1 vị Bà-la-môn tên gọi là Ma Ha Mật là 1 nhà phú quý, ngay cả quốc vương của nước Câu Lưu cũng bái ông làm sư. Ma Ha Mật tuy là 1 người giàu có nhưng bản tánh của ông vô cùng tham lam keo kiệt, tham tiền vô cùng, không tin Phật Pháp, nghe thấy thứ gì đó có lợi nhuận là bất chấp lao vào tranh lấy. Ma Ha Mật có 7 cô con gái, 7 cô con gái này đều rất xinh đẹp, ai nấy cũng đều sắc nước hương trời, dáng mạo xinh đẹp không ai sánh bằng, y phục của 7 cô con gái đều được trang trí bằng những chuỗi ngọc vàng bạc rất trang nghiêm (cũng có nghĩa là họ đều ăn mặc rất trang trọng và vô cùng xinh đẹp. Trang nghiêm nghĩa là gì? Quần áo họ mặc rất trang trọng, nên trông rất đẹp). Vị Bà-la-môn vô cùng tự hào về 7 cô con gái của mình. Có người nói với ông: “Này vị Bà-la-môn, hãy để con gái ông trang điểm rồi sau đó đi ra đường, nếu ai cũng khen con gái ông đẹp, tôi sẽ cho ông năm trăm lượng vàng; nếu có ai phê bình con gái ông không đẹp, thì ông sẽ cho tôi lại năm trăm lượng vàng”. Vị Bà-la-môn rất tự tin vào sắc đẹp của con gái mình. Ông cảm thấy việc đánh cược này rất có lợi cho mình nên đã nói với 7 cô con gái rằng: “Các con, tất cả hãy đi trang điểm cho ta, chúng ta cùng đi dạo phố”. Kết quả là trong 90 ngày, ông đưa 7 cô con gái này đi du tuần khắp nơi, ai cũng khen ngợi vẻ đẹp của con gái ông. Vị Bà-la-môn không vì thế mà hài lòng, sau khi nhận được năm trăm lượng vàng, nghe tin có một vị Đức Phật (khi đó Đức Phật ở xứ khác), liền dẫn 7 cô con gái về Tinh Xá Kì Viên, mong Đức Phật khen ngợi con ông, để nâng giá trị 7 cô con gái của ông lên.
Khi nhìn thấy Đức Phật, ông thưa với Đức Phật: “Thưa Đức Phật, Ngài đã du hành khắp các nước, Ngài có bao giờ thấy cô nàng nào xinh đẹp như vậy không?” Ông cho rằng Đức Phật nhất định sẽ khen ngợi, nhưng đâu ngờ rằng Đức Phật lại nói: “Bảy cô gái này, ngoại hình không có gì để nói là xinh đẹp cả”. Vị Bà-la-môn rất không vui: “Trong nước Câu Lưu không ai nói con gái tôi xấu. Khi tôi đến nước Xá Vệ, tại sao Ngài lại nói là con gái tôi xấu xí?” Đức Phật đáp: “Con người trên thế gian đều đánh giá vẻ đẹp của khuôn mặt là trên hết, nhưng ta nghĩ vẻ đẹp thực sự là khi thân không tham lam, miệng không nói lời ác và ý không khởi tà niệm, đây mới là vẻ đẹp đích thực”. Vị Bà-la-môn lúc này không nói nên lời.
Sau khi kể câu chuyện này, Sư phụ muốn nói với mọi người rằng từ góc độ tâm lý học, sự hiểu biết của con người chúng ta về tinh thần và nhận thức của sự vật, đối với sự hoạt động nhận thức của vật chất, chúng tồn tại sự xâm nhập lẫn nhau, hạn chế lẫn nhau và bao hàm lẫn nhau, đó là sự nhận biết về thực thể. Khi chúng ta nhìn vào một thứ gì đó, mắt chúng ta nhìn thấy những đồ vật có thật, chúng ta nhận biết được thực thể, chúng ta nhận biết được giá trị nội hàm thật sự của nó, thì đó mới thực sự là một phán đoán đúng đắn. Nếu một người bề ngoài trông có vẻ xinh đẹp, quý vị phải xem họ có tấm lòng lương thiện hay không. Trong quá trình thực hành, chúng ta học tập và trải nghiệm Phật Pháp để hình thành cảm xúc chân thực và ý thức đạo đức. Người Phật tử chúng ta nên hiểu thế nào là vẻ đẹp chân chính: những người có thể học Phật là những người không tham, không sân, không hận, đó mới là vẻ đẹp chân chính. Những người không còn tham, sân, si, mạn, nghi mới thực sự mang vẻ đẹp. Quá trình tìm kiếm gu thẩm mỹ về cái đẹp, thực chất là sự theo đuổi vẻ đẹp trong tâm hồn, đòi hỏi sự hài hoà giữa mỹ và thiện, đạt được sự thống nhất giữa cái đẹp và sự thiện lương. Vẻ bên ngoài một sự vật hoàn toàn không đại diện cho nội dung bao hàm bên trong của nó.
Sự tồn tại của con người chúng ta trên thế giới này thực ra rất phức tạp, bởi vì những thứ mà chúng ta nhìn thấy được bằng mắt khá phức tạp và lộn xộn, giữa thiện và ác không thể phân biệt được rõ ràng; có nhiều thứ chúng ta không thể biết được rằng đó là tốt hay xấu. Có những vấn đề thuộc về tính quan niệm mà cha mẹ dạy chúng ta từ nhỏ chưa chắc là đã đúng, vậy nên sẽ khiến cho chúng ta đôi khi không thể phân biệt được trắng đen trên thế gian này. Thực ra, khi quý vị hiểu được bản chất trong nội tâm mình, quý vị phải hiểu được rằng bản chất thuần khiết của nội tâm chính là vĩnh viễn không bao giờ thay đổi. Khi còn bé, chúng ta rất thiện lương, làm hư đồ vật tự giác biết đền bù. Nhưng khi bố mẹ nhìn thấy chúng ta làm hỏng đồ vật, bên cạnh không có ai lại kéo đứa con đi, thậm chí đứa trẻ có thể còn kéo tay bố mẹ và nói: “Bố ơi, con đã làm vỡ đồ của họ rồi, con muốn đền bù cho họ”. Khi quý vị đi sâu vào bản tính của mình, thực tế là không có thiện hay ác. Giống như một tờ giấy trắng, quý vị đã vẽ ra nhiều hoa văn khác nhau, dù là vẽ ra hoa văn gì, cuối cùng quý vị chỉ cần rửa nó bằng loại mực dễ phai, thì nó sẽ giống như tranh sơn dầu, hoa văn có thể được rửa sạch thì nó sẽ trở về lại màu trắng tinh khiết ban đầu. Bản chất của mỗi người đều trong sáng, đây là lý do tại sao chúng ta phải học tập những giáo lý của Phật giáo. Bổn tánh chúng ta đều thiện lương, chúng ta chỉ có thể hiểu Phật tánh bằng tự tánh của mình, nếu không sẽ bị ngũ dục lục trần làm ô nhiễm và sẽ không bao giờ tìm được Phật tánh – chính là bổn tánh chân chính thuần khiết.
Vì vậy, sư phụ muốn mọi người “thức tâm diệc nhiên” — nghĩa là nhận biết được tâm của bản thân là như vậy. Chúng ta phải dùng nước trí tuệ để rửa sạch bụi bẩn trong tâm và gột rửa những vết nhơ trong lòng chúng ta trong quá khứ. Sự thuần khiết trong nội tâm chúng ta mới là ánh sáng, đây chính là lí do vì sao cần phải học Phật — là để khôi phục lại bản chất chân thật mà chúng ta vốn có. Đức Phật đã nói với tất cả chúng sinh cách đây 2500 năm: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Chỉ bằng cách tu dưỡng Phật tánh của chính mình, tu dưỡng Phật tánh thuần khiết và lương thiện nhất trong bổn tánh của chúng ta, thì chúng ta mới có thể tìm được ngôi nhà thực sự của mình và mới hiểu được ý nghĩa thực sự của Phật pháp.
Được rồi, hôm nay bài giảng về “Bạch Thoại Phật Pháp” với đại chúng đến đây tạm dừng, chúng tôi sẽ tiếp tục thuyết giảng với đại chúng vào lần phát sóng tiếp theo. Cảm ơn đại chúng.