Tập 71 - NHẤT NIỆM TRÍ, TỨC BÁT NHÃ

    LỜI MỞ ĐẦU

Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:

“Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường. Con xin cảm tạ Bồ Tát”. 

Tập 71 - NHẤT NIỆM TRÍ, TỨC BÁT NHÃ

16/05/2020


Một người tốt mà không tham lam, thì phiền não từ đâu mà ra? Muốn cái này, muốn cái kia, đến lúc không có được, chẳng phải là phiền não phát sinh rồi sao? Cho nên, muốn bản thân không có phiền não, không có sai lệch, thì phải biết cách né tránh những rủi ro đó. Một số người rất có kinh nghiệm, chỉ cần hỏi việc này có rủi ro không, hễ nghe có rủi ro là họ liền nói: “Tôi không làm nữa, thêm một việc không bằng bớt một việc”. Nhờ vậy họ mới có thể chống lại được cám dỗ. Lấy một ví dụ đơn giản, hiện nay nhiều người vay tiền mua nhà, họ rất đau khổ. Tại sao? Vì họ không chịu nổi sự cám dỗ: “Có thể vay mà, có thể mua nhà mà”. Sau khi vay tiền rồi lại không trả nổi, căn nhà bị thu hồi, không còn là của họ nữa, thế là họ bị đau khổ trói buộc, bởi họ không đủ sức kháng cự lại loại cám dỗ này. Cho nên mới nói: “Tâm động thì vật động, tâm tĩnh thì vật tĩnh”. Lấy một ví dụ đơn giản, một bộ quần áo đẹp trưng bày trong tủ kính, nếu quý vị muốn mua, tâm quý vị vừa động thì bộ quần áo này liền “động” – vì quý vị muốn mua nó. Nếu tâm quý vị không động, chỉ nhìn qua rồi đi, thì bộ quần áo đó vẫn nằm yên ở đấy. Quý vị muốn mua nó, thì giá cả của nó chính là nguồn cơn khiến tâm quý vị xao động.

Sư phụ nói với quý vị, “Nhất niệm ngu tức Bát Nhã tuyệt”: một niệm ngu si khởi lên, trí tuệ của quý vị liền đoạn tuyệt. “Nhất niệm trí tức Bát Nhã sinh”: nếu hôm nay một niệm của quý vị có trí tuệ, thì Bát Nhã của quý vị sẽ sinh khởi. Hôm nay quý vị rất coi trọng một sự việc, quý vị cho rằng nó hiện hữu, thì nó liền hiện hữu trước mắt quý vị. Nếu quý vị cảm thấy việc này đối với mình chẳng hề quan trọng, không coi nó là gì cả, thì nó liền không tồn tại trước mắt quý vị nữa. Lấy một ví dụ đơn giản, quý vị thấy một căn nhà vô cùng tốt, quý vị rất thích, đã xem xét kỹ lưỡng và bắt đầu tính chuyện vay tiền. Quý vị đã phải suy tính rất nhiều, thì vật phẩm này là có thật. Đến khi quý vị nói: “Thôi bỏ đi, giá cao như vậy, nhà tốt hơn nó còn rất nhiều”, quý vị không còn coi trọng nó nữa, thì tòa nhà lớn đó liền không tồn tại, trong mắt quý vị nó đã không còn nữa, đã kết thúc rồi. Bất luận chúng ta làm việc gì, đôi khi có ở trong tâm thì nó là có, không có ở trong tâm thì nó là không. Rất nhiều vật chất ở nhân gian đều là hư không, ngay cả con người cũng là hư không. Chúng ta đến thế gian này, tất cả đều là hư không. Kinh Phật đã sớm giải thích: “Sống không mang đến, chết không mang đi”. Vật phẩm nào không thể mang đi được thì không phải là của quý vị. Quý vị nghĩ xem có thể mang đi được không? Không mang đi được, vậy thì nó không phải là của quý vị, cho dù quý vị có sở hữu nó rồi cũng sẽ mất đi.

“Vọng tâm bất khởi, hằng xử tịch diệt chi lạc”. “Vọng tâm bất khởi” nghĩa là, hôm nay đối với bất kỳ sự việc nào trên thế gian, quý vị cũng không khởi lên tâm tham và những ý niệm vọng tưởng muốn chiếm hữu. “Hằng xử tịch diệt chi lạc” nghĩa là quý vị sẽ luôn ở trong niềm vui của sự tịch diệt (tức là sự bình an, tĩnh lặng). Nếu vọng tâm của quý vị vừa khởi động, nó sẽ bị gai góc của phiền não làm tổn thương. Cho nên kinh nói: “Hữu tâm giai khổ, vô tâm tức lạc” (Có tâm đều là khổ, vô tâm chính là vui). Người học Phật chính là phải quản cho tốt cái tâm này của mình. Vì vậy, người học Phật chân chính, tu hành tu tâm, tu tâm tu hành, không thể tách rời cái tâm này. Phải quản tốt cái tâm của mình, để tâm mình được “tâm vô quái ngại”, thì mới có thể đạt đến cảnh giới vô ngã.

Sau đây, Sư phụ xin kể cho quý vị nghe một câu chuyện từ thời Đức Phật còn tại thế.

Một thời, Đức Phật ở tại thành Xá Vệ. Ở nước Lộc Dã Uyển có một vị vua nổi tiếng tên là Phạm Thí. Trong thời gian ngài trị vì, đất nước quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, trâu béo ngựa tốt, cả nước một phen sinh cơ bừng bừng, phồn vinh thịnh vượng, người dân sống trong cảnh an lành. Không lâu sau, vương phi mang thai, mười tháng sau sinh được một bé gái xinh đẹp, đoan trang. Triều đình trong ngoài đã tổ chức một buổi lễ chúc mừng long trọng cho công chúa. Khi chuẩn bị đặt tên cho nàng, vì hoàng tộc mang họ Ca Hi, mà nàng lại trời sinh tú lệ, xinh đẹp phi phàm, nên được đặt tên là “Mỹ nữ Ca Hi”. Quốc vương đặc biệt mời tám vị vú nuôi, mỗi vị lần lượt phụ trách việc ăn, uống, ngủ, nghỉ, vui chơi… của nàng, hết lòng chăm sóc. Vị công chúa này lớn nhanh như hoa sen trong biển. Từ nhỏ, nàng đã học các môn văn võ, lý số, kinh sử, thi phú và phát khởi lòng tin vô cùng to lớn đối với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nàng cũng thường nhờ sự trợ giúp của cha mẹ để cúng dường Tam Bảo.

Lúc này, Mỹ nữ Ca Hi đang độ tuổi xuân thì, là một thiếu nữ yểu điệu thục nữ, vẻ đẹp của nàng có thể nói là đệ nhất thế gian, không gì sánh bằng. Đến nỗi các vị vua của sáu nước láng giềng đều biết tiếng và hy vọng được cưới nàng về hoàng cung. Sáu nước bèn cử sứ giả đến nước của vua Phạm Thí để xin cầu hôn. Vua Phạm Thí nghe xong, trong lòng lập tức bất an, thầm nghĩ: “Ta chỉ có một người con gái, nếu ta nhận lời một vị vua, thì năm vị vua còn lại chắc chắn sẽ gây chiến với ta, việc này sẽ nguy hại đến toàn thể thần dân trong nước.” Ông có phần lo lắng, nên đã không nhận lời bất kỳ vị vua nào. Sáu vị vua này đều rất không vui, mỗi người đều thống lĩnh binh hùng tướng mạnh tiến về nước Lộc Dã Uyển, chuẩn bị dùng vũ lực để cướp công chúa.

Một buổi sáng, vua Phạm Thí đột nhiên nghe thấy bên ngoài thành cờ xí rợp trời, xe ngựa rầm rập. Ông leo lên tường thành quan sát, thì thấy trước mắt chính là quân đội của sáu nước. Đột nhiên, ông cảm thấy mọi thứ đã chấm hết, trong lòng vô cùng lo lắng. Ngài lê những bước chân nặng nề, uể oải trở về lầu cao, ngồi đó chống cằm suy nghĩ: “Phải làm sao đây?”. Ông vô cùng lo lắng.

Lúc này, Mỹ nữ Ca Hi đến bên cạnh vua Phạm Thí, thấy phụ vương mặt mày sầu não, vội hỏi: “Thưa phụ vương, vì sao Người lại ưu phiền như vậy?”

“Ôi, là vì con đó.”

“Vì con ư? Chẳng lẽ dung mạo của con không đủ đẹp sao?” Nàng còn nói đùa.

Vua Phạm Thí cười khổ nói: “Con gái ơi, không phải vì con không đẹp, mà là vì con quá đẹp. Sáu nước tranh nhau cầu hôn, ta đã lần lượt từ chối, đến nỗi hôm nay binh lính sáu nước đã vây thành. Việc này phải làm sao đây?”

Mỹ nữ Ca Hi suy nghĩ một lát rồi hỏi: “Thưa phụ vương, phụ nữ có quyền tự lựa chọn hôn nhân của mình không ạ?”

Quốc vương sảng khoái đáp: “Dĩ nhiên là có quyền tự lựa chọn.”

Mỹ nữ Ca Hi sau khi được vua cha chấp thuận, liền an ủi ngài: “Phụ vương, xin Người đừng lo lắng. Người hãy đi báo với sáu vị quốc vương rằng, con sẽ đích thân lựa chọn họ.”

Quốc vương nghe xong, trong lòng nhẹ nhõm đi nhiều, liền sai sáu sứ giả đi thông báo việc này cho sáu vị vua, xin họ hãy lui binh và chờ đợi vài ngày để chuẩn bị cho buổi tuyển chọn. Lúc này, sáu vị vua đều kiêu hãnh cho rằng Mỹ nữ Ca Hi nhất định sẽ chọn mình, vì vậy họ đều đồng loạt chấp thuận lui binh. Sứ giả về báo: “Bẩm Quốc vương, quân đội sáu nước đã toàn bộ lui binh.” Quốc vương thầm nghĩ: “Lần này con gái chắc chắn phải xuất giá làm vương phi rồi. Nhưng dù sao đi nữa, chỉ cần quốc thái dân an, lòng ta đã mãn nguyện.” Sau đó, tâm ông dần dần bình tĩnh trở lại.

Sáu vị quốc vương ứng tuyển kia mỗi người đều xây dựng cung điện, tìm kiếm các loại châu báu, mang theo voi (thời đó, voi tượng trưng cho uy thế của một quốc gia), tài sản và gia quyến, gần như dốc hết tất cả những gì mình có, đúng ngày hẹn đến Lộc Dã Uyển. Sau khi đến nơi, họ chiếm cứ một phương, mỗi người một đội hình, rồi ngồi trên bảo tọa sư tử, chờ đợi Mỹ nữ Ca Hi xuất hiện. Ai nấy đều nhìn nhau, người nào cũng nghĩ mình là người xuất sắc nhất.

Mỹ nữ Ca Hi thực sự đã đến. Nàng mặc y phục và trang sức quý báu, cưỡi trên một con voi lớn, từ từ đi ra khỏi cổng thành. Nàng đi qua trước mặt từng vị vua, cuối cùng chân thành nói với họ: “Thưa các vị quốc vương, tôi không muốn cùng bất kỳ ai sống một cuộc đời thật thật giả giả của thế gian. Tôi nguyện lễ bái Đức Phật Thích Ca Mâu Ni!” Nói xong, nàng quay đầu, cưỡi voi đi mất. Sáu vị quốc vương và gia quyến nhìn theo bóng lưng nàng đang dần đi xa, lòng vô cùng thất vọng. Nhưng họ cũng thoáng nghĩ (vì thời đó họ rất tôn trọng tôn giáo, Phật giáo), một người phụ nữ xinh đẹp như vậy sao lại không tham luyến cuộc sống thế gian, không muốn hưởng vinh hoa phú quý, mà lại tình nguyện quy y theo Phật? Vua Phạm Thí và các quyến thuộc cũng thấy hành động của công chúa, họ bán tín bán nghi đi theo sau để xem thực hư ra sao.

Trên đường đi, lúc có thể cưỡi voi thì nàng cưỡi, lúc không thể thì nàng đi bộ. Trải qua một hành trình gió bụi, cuối cùng nàng đã đến được tịnh xá nơi Đức Phật ngự. Gặp được Đức Phật, nàng đến dưới chân Ngài, chắp tay, cung kính đảnh lễ và cầu xin: “Bạch Đức Thế Tôn, con nguyện được xuất gia trong giáo pháp của Ngài, thụ trì tịnh giới, cúi xin Ngài từ bi chấp thuận!” Đức Phật hoan hỷ nhận lời, cho gọi vị Trưởng lão Ni đứng đầu Ni đoàn đến và đích thân giao công chúa cho vị ấy. Vị Trưởng lão Ni liền thế phát (cạo tóc) cho công chúa, làm lễ xuất gia, truyền trao Cụ Túc giới và giảng dạy Phật pháp. Vị công chúa này đã tích lũy tư lương, tinh tấn tu hành, đoạn tận gốc rễ luân hồi trong tam giới, chứng được quả vị Thánh A-la-hán. Trong cảnh giới của ngài, vàng và phân bùn như nhau, không có hơn kém; bàn tay và hư không không khác, hiện tượng và tánh không không hai. Chư Thiên đều hết lời tán thán. (Sư phụ từng kể với quý vị, có một vị nhân vật vĩ đại lúc lâm chung đã dặn thị vệ rằng, sau khi ông mất, hãy đặt hai bàn tay ông ra ngoài quan tài cho mọi người xem. Một người vĩ đại như vậy, khi ra đi cũng hai bàn tay trắng. Điều đó chính là để nói với mọi người rằng: cả một đời tưởng như nắm giữ được nhiều thứ, nhưng cuối cùng cũng phải buông bỏ tất cả).

Những người đi theo thấy Mỹ nữ Ca Hi đã thực sự xuất gia và chứng đắc Thánh quả, ai nấy đều cảm thấy thật phi thường. Mỹ nữ Ca Hi lại đến trước Phật để lễ tạ, và Đức Thế Tôn đã thuyết pháp cho những người đi theo nàng. Lúc này, các vị Tỳ-kheo hỏi Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, do nhân duyên gì mà Mỹ nữ Ca Hi được sinh vào nhà đế vương? Do nhân duyên gì mà nàng lại có tướng mạo hảo trang nghiêm như vậy? Do nhân duyên gì mà nàng lại sinh lòng tin lớn vào giáo pháp của Như Lai? Và do nhân duyên gì mà nàng lại nhanh chóng chứng được Thánh quả?”

Đức Phật liền bảo họ: “Đây là do nguyện lực từ các kiếp trước của cô ấy. Vào thời Hiền Kiếp, khi tuổi thọ của con người là hai vạn năm, lúc đấng Nhân Thiên Đạo Sư, Như Lai, Chánh Đẳng Giác là Phật Ca Diếp ra đời, ở Lộc Dã Uyển có một nhà thí chủ giàu có như Đa Văn Thiên Tử. Nàng dâu của thí chủ sinh được một bé gái xinh đẹp. Khi lớn lên, cô gái này phát khởi lòng tin mãnh liệt vào Đức Phật Ca Diếp. Nhờ sự giúp đỡ của cha mẹ, cô đã xây dựng một ngôi kinh đường để cúng dường Phật và chư Tăng. Sau khi được cha mẹ đồng ý, cô đã xuất gia, cả một đời nghiêm trì tịnh giới, tinh tấn nghe, suy nghĩ và tu hành (Văn, Tư, Tu). Trước lúc lâm chung, cô phát nguyện: ‘Nguyện nhờ công đức bố thí, cúng dường, trì giới, văn tư tu trong đời này, mà con đời đời kiếp kiếp được sinh vào nhà giàu sang, tướng mạo trang nghiêm, và được xuất gia chứng quả A-la-hán trong giáo pháp của Đức Thích Ca Thế Tôn’. Vị Tỳ-kheo-ni phát nguyện đó chính là Mỹ nữ Ca Hi ngày nay. Do nguyện lực trong quá khứ đã chín muồi, nên đời này cô ấy được sinh trong nhà quyền quý, tướng mạo hảo trang nghiêm, sinh lòng tin đối với Ta, được xuất gia làm Ni và chứng đắc Thánh quả.”

Đức Phật kể cho họ nghe nhân duyên như vậy, chính là để nói rằng, con người phải phát khởi lòng tin thanh tịnh và rộng lớn. Hãy nhìn lại chúng ta bây giờ, ai cũng không có nguyện lực. Nguyện lực của rất nhiều người chỉ là: “Tôi muốn nổi tiếng, tôi muốn giàu sang”. Hãy xem những người đến chùa cầu xin, toàn là cầu tài lộc, cầu cho bản thân mình được tốt đẹp, tất cả đều là vì mình. Mỗi người chúng ta phải hiểu rằng: phiền não là do cầu mà có, dục vọng sẽ tạo ra phiền não, sẽ làm tổn thương tâm thanh tịnh và khiến quý vị mất đi thêm nhiều trí tuệ và phúc đức. Vì vậy, hãy xa lìa dục vọng, để chúng ta có thể đón nhận trí tuệ của Đức Phật, dùng tâm thanh tịnh của Quán Thế Âm Bồ Tát, dùng Phật pháp mà Đức Phật đã chỉ dạy để dẫn lối chúng ta đi về phía trước. Như vậy, chúng ta mới có thể xa lìa điên đảo mộng tưởng, một đời tu thành để báo Phật ân!

Được rồi, hôm nay Sư phụ giảng cho mọi người đến đây. Chúng ta hẹn gặp lại trong chương trình lần sau. Cảm ơn quý vị.

Tập 72 >>

Mới hơn Cũ hơn