Sư phụ Lư Quân Hoành giảng giải Bạch Thoại Phật Pháp ngày 20/05/2020
Hôm nay Đài trưởng sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện. Cuộc đời của một con người, thực ra được giải thích qua rất nhiều câu chuyện.
Cuộc đời của chúng ta là một sự đan xen giữa công và tội (công quá tương tạp), bởi vì ta vừa làm rất nhiều việc thiện, nhưng cũng lại làm rất nhiều việc ác. Tại sao mỗi người lại có bi hoan ly hợp và khổ vui? Thực tế chính là vì công tội đan xen. Nói cách khác, tiền kiếp và đời này của quý vị đã làm rất nhiều việc thiện, cũng đã làm rất nhiều việc ác, cho nên đời này quý vị sẽ nhận được nhiều ác báo, và cũng nhận được nhiều niềm vui. Công và tội không thể bù trừ cho nhau, tất cả đều là quả báo từ các ác nghiệp và thiện nghiệp do chính mình tạo ra, chứ không phải chỉ do một loại nhân duyên, mà là sự tập hợp của các loại nghiệp duyên – thiện duyên, ác duyên, đố kỵ duyên... Có người chỉ thích đố kỵ người khác, đó chính là đố kỵ duyên. Có người chỉ thích hận người khác, sinh ra đã hận, hận đến lúc lâm chung vẫn hận, nên người này gọi là hận duyên. Đó là sự quy tụ của các loại nghiệp duyên.
Sau đây là một câu chuyện. Có một thời, Đức Phật ở tại thành Xá Vệ. Bấy giờ thành Xá Vệ do vua Thắng Quang (Ba-tư-nặc) cai quản, còn Lộc Dã Uyển do vua Phạm Thí (Phạm-ma-đạt-đa) trị vì. Do một vài mâu thuẫn, hai nước bắt đầu giao chiến, đôi bên thương vong vô cùng thảm khốc, thiện duyên giữa hai quốc gia ngày càng ít đi.
Một lần nọ, vua Phạm Thí thống lĩnh binh chủng xe, ngựa, voi và bộ binh tiến đánh thành Xá Vệ, đóng trại bên bờ sông Khang Đan. Vừa mới đóng trại không lâu, vua Thắng Quang đã hay tin, biết họ kéo đến giao tranh, liền lập tức đích thân dẫn tinh binh ra nghênh chiến. Lực lượng hai bên tương đương, đánh nhau bất phân thắng bại, cục diện cứ thế giằng co.
Lúc này, vương phi của vua Phạm Thí hạ sinh một công chúa vô cùng đoan trang, trong cung ngoài nội tiếng trống nhạc vang lừng để chúc mừng sự ra đời của nàng. Vua Thắng Quang sau khi biết chuyện, thầm nghĩ: "Ta và nước Phạm giao chiến đã lâu, tiền cảnh cũng không mấy lạc quan, đôi bên đều ở trong thế tiến thoái lưỡng nan. Chi bằng nhân cơ hội cô bé này ra đời mà cầu hòa thân, xoa dịu mối quan hệ hai nước." Quyết định như vậy xong, vua Thắng Quang liền phái sứ giả đến nước Phạm Thí để cầu hôn, cầu xin vua Phạm Thí gả công chúa vừa mới sinh cho mình làm vương phi. Thời xưa, con trẻ vừa sinh ra là đã có thể hứa gả. Thậm chí còn có tục "chỉ phúc vi hôn", tức là khi đứa trẻ còn chưa ra đời đã hẹn ước: "Nếu sinh ra là con trai thì sẽ cưới con gái tôi, nếu là con gái thì sẽ gả cho con trai tôi."
Vua Phạm Thí sau khi biết được ý của vua Thắng Quang, cũng vừa hay có cớ để xuống thang, liền nghĩ: "Hai nước giao chiến đến nay, cả ta và địch đều tổn thất nặng nề. Nay ông ấy đã đề nghị kết thông gia, không chiến mà hòa, thật hợp ý ta, coi như mọi chuyện được hóa giải." Ông bèn báo với sứ giả rằng mình rất vui lòng hòa thân cùng vua Thắng Quang. Từ đó, hai nước hóa giải can qua, trở thành láng giềng thân hữu.
Vua Phạm Thí tổ chức lễ hạ sinh long trọng cho công chúa. Khi đặt tên, vì sự ra đời của nàng đã dẹp yên chiến tranh, khiến cả nước an bình, nên nàng được đặt tên là "An Ninh Mẫu", được nuôi lớn bằng sữa bò, sữa chua và bánh dầu. Không lâu sau, vương phi của vua Phạm Thí lại sinh một hoàng tử, tướng mạo cũng vô cùng trang nghiêm. Họ đặt tên cho cậu bé là "An Ninh", và cũng nuôi nấng cậu bằng sữa bò, sữa chua, bánh dầu. Vị hoàng tử này lớn nhanh như hoa sen nở. Không ngờ hai chị em lại thân thiết không rời, dường như không muốn xa nhau dù chỉ một khắc.
An Ninh Mẫu đã trưởng thành, lúc này vua Thắng Quang chuẩn bị nghênh đón nàng về nước, bèn đặc phái người đến thỉnh cầu vua Phạm Thí. Vua Phạm Thí nói: "Nếu vua Thắng Quang đã có tâm ý này, vậy hãy chọn ngày lành tháng tốt để cử hành hôn lễ." Theo ngày lành đã định, vua Thắng Quang đích thân đến Lộc Dã Uyển để nghênh đón An Ninh Mẫu. Sau khi về đến thành Xá Vệ, một hôn lễ long trọng đã được cử hành theo phong tục của nước này.
Người em trai An Ninh vì không tìm thấy chị mình, bèn hỏi phụ vương và mẫu hậu: "Chị con đâu rồi ạ?"
Vua Phạm Thí nói: "Chị con đến chỗ vua Thắng Quang rồi."
"Không chịu đâu, con cũng muốn đi." Cậu bé khóc lóc, làm loạn.
Phụ mẫu nói với cậu: "Chị con đã thành gia lập thất, chị đi là để kết hôn, con đi theo làm gì? Con là hoàng tử của ta, sau này phải kế vị ngai vàng, lo việc quốc chính, con không thể đi được." Dù bị khuyên can nhiều lần, cậu bé ngày nào cũng gây sự, nhất quyết đòi đến chỗ chị gái.
Sau đó, vua Thắng Quang nói với vua Phạm Thí: "Cứ để An Ninh đến đây, ta sẽ đối đãi công bằng với cả hai chị em." Vua Phạm Thí bất đắc dĩ, đành phải đưa con trai đến thành Xá Vệ để đoàn tụ với chị gái.
Vua Thắng Quang dạy cho An Ninh tinh thông các kỹ năng như cưỡi ngựa, bắn cung. Nhưng không ngờ về sau, cậu bé An Ninh này lại hư hỏng, làm hơn một trăm việc bất chính, như thường xuyên lui tới nhà chứa. Bấy giờ, An Ninh Mẫu và vua Thắng Quang đã nhiều lần khuyên bảo người em trai đừng làm như vậy, nhưng không có tác dụng. Vạn bất đắc dĩ, họ đành phải sai người báo cho vua Phạm Thí về những hành vi bất hảo của An Ninh.
Vua Phạm Thí năm lần bảy lượt gọi con trai về, bảo rằng: "Con đừng buông thả bản thân như thế. Thân là hoàng tử, sau này con phải kế vị ngai vàng, lo liệu quốc sự." Nhưng An Ninh vừa không muốn về cung, cũng không nghe lời phụ vương dạy bảo, vẫn cứ ngang ngược làm theo ý mình. Cuối cùng, vua Phạm Thí đành phải tuyên bố cắt đứt quan hệ cha con. Vua Thắng Quang cũng vì hành vi của cậu quá trái pháp luật mà đuổi cậu ra khỏi hoàng cung. Không còn chốn nương thân, cậu sống lang bạt ở phố chợ, thực chất là lưu lạc khắp nơi.
Một hôm, cậu quay về hoàng cung, muốn vào thăm chị gái, nhưng dù thế nào lính gác cũng không cho vào. Cậu sinh lòng sân hận tột độ, im lặng nhìn vào trong cung, thấy chị gái đang cùng vua Thắng Quang gảy đàn tỳ bà trên đài mát. Ngay lúc đó, An Ninh khởi lên sát tâm, hắn giương cung tên, nhắm thẳng vua Thắng Quang mà bắn. Nhưng vì khoảng cách quá xa, mũi tên chỉ làm đứt dây đàn, cây tỳ bà rơi xuống đất, nhà vua kinh hoàng quay người bỏ chạy.
Vua Thắng Quang vô cùng phẫn nộ, thầm nghĩ: "An Ninh này lại dám giết ta? Ta thật nên giết hắn ngay lập tức! Nhưng hắn dù sao cũng là hoàng tử của vua Phạm Thí, giết hắn e rằng vua Phạm Thí sẽ không vui." Ông suy nghĩ một lúc, "Phải đem ra triều đình định tội, xử hắn tử hình."
Ở nước của vua Thắng Quang có hội nghị biện luận, thực chất là triệu tập mọi người đến họp, và có quy định: biện luận nhỏ thì thổi hai tù và bằng ốc biển để tập trung dân chúng (nước ngày xưa rất nhỏ, giờ gọi là một tiểu bang); biện luận lớn thì không chỉ thổi tù và mà còn phải đánh trống lớn. Bấy giờ, nhà vua hạ lệnh cho người thổi tù và, đánh trống lớn, triệu tập các đại thần và toàn thể quan viên của thành Xá Vệ, rồi đưa An Ninh đến biện luận cùng nhà vua. Nói theo cách bây giờ, thực chất đây là một phiên tòa cho phép bị cáo được tự bào chữa trước khi tuyên án. Rất nhiều bá tánh đã đến xem. Cuối cùng, An Ninh thua kiện vì đã phạm hơn một trăm điều luật. Theo lệ của nước này, người ta đeo một vòng hoa lên cổ cậu, hễ ai đeo vòng hoa này thì có nghĩa là đã bị phán cực hình (tử hình), rồi bị giao cho đao phủ để điệu đi khắp phố.
Lúc này, An Ninh mới nhận ra hành vi của mình là sai trái, lòng hối hận vô cùng. Cậu một mình gào khóc: "Trên thế gian này, có ai có thể cứu tôi không!" Khi ấy, cậu mới biết mình sắp chết, lòng vô cùng đau khổ.
Đức Thích Ca Như Lai có đầy đủ vô lượng công đức và đại bi tâm, Ngài hằng giờ hằng khắc quán chiếu nhân duyên khổ vui của tất cả chúng sinh. Bởi vì Đức Phật có thể quán xét thế giới, Ngài thường ngồi thiền định và thấy được sự phát sinh của các loại sự việc, Ngài có thể thấy được nhân duyên khổ vui. Tại sao lại như vậy? Lòng từ bi của Phật đối với chúng sinh, không rời xa dù chỉ trong một sát-na. Cho nên người học Phật phải biết, chỉ cần cầu Phật, cầu Bồ Tát, cầu Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu Đức Phật vĩ đại, cầu tất cả các vị Bồ Tát, thì tâm đại từ bi của các Ngài không một sát-na nào rời khỏi chúng ta. Vì vậy, mọi người phải học cách cầu Bồ Tát.
Đức Thế Tôn (Thích Ca Mâu Ni Phật) khi đó quán xét thấy cơ duyên để độ hóa An Ninh đã chín muồi, liền nói với các đệ tử: "Này các đệ tử, chúng ta hãy đắp y, mang bát vào thành khất thực." Đức Phật biết chuyện đã xảy ra, Ngài bèn gọi các đệ tử cùng đi khất thực.
Khi Đức Phật đang đi tới, An Ninh đang bị điệu trên phố từ xa đã nhìn thấy Ngài. Vừa thấy Đức Phật, cậu liền sinh tâm vô cùng hoan hỷ, rồi lập tức tiến lên cung kính đảnh lễ.
(cho nên khi chúng ta thấy pháp sư, phải sinh tâm hoan hỷ, bởi vì nơi nào có Pháp Sư... cũng như thấy Sư Phụ vậy, nơi nào Sư Phụ đến nơi đó sẽ có niềm vui, có năng lượng chính diện tốt lành, cảm thấy vô cùng hoan hỷ).
Cậu quỳ xuống khẩn cầu Đức Thế Tôn: "Bạch Đức Phật từ bi, Ngài có thể cho con thêm một mạng sống nữa không? Xin Ngài hãy cứu con, con cũng chỉ là nhất thời hồ đồ."
Đức Thế Tôn vô cùng từ bi, Ngài nói với các đao phủ: "Các ngươi đừng giết cậu ấy, hãy thả cậu ấy ra."
Những đao phủ khó xử nói với Đức Thế Tôn: "Bạch Đức Phật, xin Ngài nghĩ lại, chúng con đâu có hai cái đầu. Nếu có hai cái đầu, chúng con có thể thả hắn, còn bây giờ nếu thả hắn, đầu của chúng con sẽ mất."
Đức Thế Tôn nói với họ: "Ta sẽ đi gặp nhà vua. Trước khi ta gặp được vua, xin các ngươi đừng giết cậu ấy."
"Vâng, vâng, được ạ. Vậy chúng con xin đợi Ngài."
Đức Thế Tôn tìm gặp vua Thắng Quang, nói: "Thưa Đại vương, xin hãy tha cho tội nhân đó, đừng giết cậu ấy."
Các vị vua thời bấy giờ đều vô cùng kính trọng Đức Phật. Vua Thắng Quang đầy lòng tin nói: "Bạch Thế Tôn, hắn đã phạm nhiều trọng tội, đáng lẽ phải bị xử tử. Nhưng nếu Ngài có thể tiếp độ hắn, và hắn cũng bằng lòng xuất gia, thì chúng thần sẽ tha cho hắn."
Đức Thế Tôn đồng ý với nhà vua: "Được, vậy ta sẽ tiếp độ cậu ấy." Ngày xưa ở các nước Ấn Độ cổ đại, sự kính trọng đối với Phật và Phật pháp là vô cùng to lớn. Câu nói "xuất gia có thể miễn tội chết" chính là từ đạo lý này, vì người đã xuất gia thì không còn sống trong vòng thế tục nữa.
Sau đó, Đức Thế Tôn đưa cậu về giảng đường, thế phát, thụ giới và truyền pháp cho cậu. Không ngờ An Ninh cũng vô cùng tinh tấn tu hành. Vì duyên phận đã đến, cậu nhanh chóng diệt tận phiền não của tam giới luân hồi (nghĩa là đã thông suốt, minh bạch, chỉ cần làm mười điều thiện, vĩnh viễn không làm điều ác nữa thì sẽ thoát khỏi luân hồi trong tam giới), và chứng đắc quả vị A-la-hán.
Lúc này, nhiều vị Tỳ-kheo đệ tử bên cạnh Đức Phật liền hỏi: "Bạch Đức Thế Tôn, thái tử An Ninh đã làm nhiều điều bất chính, lúc sắp hành hình lại được Thế Tôn cứu mạng, độ cho xuất gia và chứng quả A-la-hán. Xin Thế Tôn hãy vì chúng con mà nói rõ nhân duyên trước sau." "Đúng vậy, bạch Đức Phật, xin Ngài hãy giảng về nhân duyên trước sau ạ."
Đức Thế Tôn bảo các vị Tỳ-kheo: "Này các Tỳ-kheo, không chỉ đời này ta cứu cậu ấy, độ cho cậu ấy xuất gia chứng quả A-la-hán, mà ở tiền kiếp ta cũng đã từng cứu cậu ấy, giúp cậu ấy đắc được Tứ thiền và Ngũ thông."
"Bạch Đức Phật, xin Ngài hãy mau kể cho chúng con nghe."
"Từ rất lâu về trước, ở Lộc Dã Uyển có một vị vua tên là Thương Kỳ. Trong nước của ông có một kẻ ác nhân đã làm rất nhiều điều bất chính, sau đó bị kết án tử hình. Khi đao phủ chuẩn bị hành quyết, hắn vô cùng sợ hãi, kêu gào cứu mạng. Bấy giờ, gần Lộc Dã Uyển có một vị đại tiên nhân, có đủ năm loại thần thông. Thấy kẻ kia vô cùng đáng thương, tiên nhân muốn cứu hắn. Kẻ ác nhân thấy đại tiên nhân, bèn cung kính đảnh lễ, cầu xin cứu mạng: ‘Thưa tiên nhân, xin hãy cứu con.’ Tiên nhân bèn bảo đao phủ hãy thả hắn ra, đừng giết. Các đao phủ nói: ‘Thưa đại tiên nhân, chúng con đâu có hai cái đầu. Bây giờ nếu không giết hắn, chúng con không thể làm được.’ Tiên nhân muốn đi gặp vua để thương lượng, bèn dặn các đao phủ: ‘Trước khi ta tìm được vua Thương Kỳ, các ngươi không được giết hắn.’ Các đao phủ đồng ý. Tiên nhân bèn tìm vua để cầu xin, nhà vua nói: ‘Nếu không giết hắn, thì ngài phải đưa hắn đi xuất gia.’ Tiên nhân đồng ý, bèn dẫn ác nhân đó vào rừng sâu, truyền dạy chánh pháp cho cậu ta. Cậu ta nương theo lời dạy mà tu hành, đắc được Tứ thiền và Ngũ thông."
Ở đây, tôi giải thích thêm cho quý vị: Nhiều người tiền kiếp có thần thông, nhưng đời này chưa chắc đã có, là vì bị "thai chướng che lấp" (tức là sau khi đầu thai chuyển thế đã bị che lấp mất). An Ninh tiền kiếp tuy đắc được Tứ thiền Ngũ thông, nhưng đời này khi bị trói điệu ra phố, cậu hoàn toàn không thể hiển lộ được Tứ thiền Ngũ thông của tiền kiếp.
Đức Thế Tôn bảo các vị Tỳ-kheo: "Này các Tỳ-kheo, vị tiên nhân lúc đó chính là Ta, người đã chứng ngộ Bồ-đề hiện nay. Kẻ ác nhân đó chính là thái tử An Ninh ngày nay, còn vua Thương Kỳ chính là vua Thắng Quang ngày nay. Trước kia, khi cậu ta sắp bị hành hình, Ta đã cứu cậu ta, giúp cậu ta tu đắc Tứ thiền Ngũ thông. Bây giờ, cũng vào lúc cậu ta sắp bị hành hình, Ta lại cứu cậu ta, giúp cậu ta chứng đắc quả vị La-hán Niết-bàn rốt ráo."
Nhiều vị Tỳ-kheo hỏi: "Xin hỏi Thế Tôn, vậy do nhân duyên gì mà đời này An Ninh được chuyển sinh vào gia đình hoàng thân quốc thích giàu sang, thân tướng trang nghiêm, được Phật ra lệnh hóa độ, lại có thể xuất gia chứng quả A-la-hán? Kính mong Đức Phật giảng nói nhân duyên trước sau."
Đức Thế Tôn lại dạy rằng: "Đây là do nguyện lực từ tiền thế. Vào thời Hiền kiếp, khi con người sống thọ hai vạn tuổi, có Đức Phật Ca Diếp là bậc Đạo sư của trời và người, Như Lai, Chánh Đẳng Giác, ra đời. Bấy giờ, có một vị Tỳ-kheo làm chấp sự trong tăng đoàn, cả đời làm việc cho tăng chúng, lao nhọc siêng năng. Lúc lâm chung, ông phát nguyện rằng: ‘Con cả đời xuất gia phục vụ tăng chúng, tuy không đắc được công đức hay cảnh giới gì, nguyện đem thiện căn này, trong tương lai khi Đức Phật Thích Ca ra đời, sẽ khiến Phật hoan hỷ, được xuất gia diệt tận phiền não tam giới, chứng đắc quả vị A-la-hán.’ Vị Tỳ-kheo chấp sự đó chính là hoàng tử An Ninh bây giờ. Do nguyện lực của ông đã chín muồi, nên đời này dưới giáo pháp của Ta, cậu ấy đã khiến Ta hoan hỷ, được xuất gia, diệt tận phiền não tam giới, và chứng đắc quả vị A-la-hán."
Câu chuyện này cho chúng ta biết rằng, sự thành công của mỗi người, duyên phận của mỗi người với Bồ Tát, đều có gốc rễ cội nguồn. Học Phật không phải là duyên phận chỉ có trong đời này, mà đều là duyên phận từ nhiều đời nhiều kiếp của chính mình.
Vì vậy, hy vọng mọi người hãy gắng sức học Phật tu tâm, đừng gặp phải một chút phiền não, trắc trở trên đường tu mà chấp mê không tỉnh ngộ. Khi con đường ở nhân gian không còn lối đi, hãy học cách rẽ sang hướng khác, lựa chọn một lối rẽ. Khi tu tâm cảm thấy không vui, hãy học cách xem nhẹ nó đi, đừng quá nặng lòng, qua rồi thì thôi, sửa đổi là tốt rồi. Ở nhân gian, khi tình cảm dần phai nhạt, xa cách, rời bỏ bạn mà đi, hãy học cách chọn lựa sống tùy duyên.
Ở nhân gian, có những việc hãy gánh vác thêm một chút, gắng gượng một chút, có thể rồi sẽ qua. Có những kẻ hại mình, hãy cắn răng chịu đựng, có thể dần dần rồi sẽ quên. Có những nỗi khổ, hãy mỉm cười cho qua, cười rồi sẽ qua, khổ rồi cũng sẽ qua. Trái tim của người tu hành, đôi khi bị tổn thương một chút, lại càng trở nên mạnh mẽ hơn. Con đường đời gập ghềnh, hãy thản nhiên mà bước đi theo duyên.
Khi đắc ý, người học Phật chúng ta phải học cách xem nhẹ; khi thất ý, người học Phật chúng ta phải học cách nhìn thoáng. Tuyệt đối đừng quá chấp trước vào một quan điểm nào đó của bản thân, để rồi tự mang lên mình gánh nặng và nghiệp chướng ở nhân gian. Chúng ta thường nói "nghiệp ai nấy mang", đừng gánh thêm nghiệp chướng. Hãy học cách "cần tu khổ luyện học Phật duyên" – tức là học hỏi duyên phận với Phật Pháp cần phải siêng năng tu hành gian khổ, để tu thành Vô thượng Chánh Đẳng Tâm. Hy vọng mọi người nhất định phải nghĩ cho thông, nghĩ cho thấu, một đời tu thành mới là nguyện vọng về trời chân chính của chúng ta.
Được rồi, cảm ơn đại chúng. Hôm nay bài giảng《Bạch thoại Phật pháp》xin tạm dừng tại đây. Hẹn gặp lại lần sau. Cảm ơn đại chúng.