Đọc Online Kinh Sách tại đây
Hướng dẫn tải Kinh Sách tại đây.
Thỉnh Kinh Sách miễn phí tại đây.
Chú ý: Pháp môn Tâm Linh không kêu gọi quyên góp tài vật với bất kỳ mục đích gì.
Hướng dẫn tải Kinh Sách tại đây.
Thỉnh Kinh Sách miễn phí tại đây.
Chú ý: Pháp môn Tâm Linh không kêu gọi quyên góp tài vật với bất kỳ mục đích gì.
LỄ PHẬT ĐẠI SÁM HỐI VĂN
(礼 佛 大 忏 悔 文)
*Tác dụng của kinh văn *
《Lễ Phật Đại Sám hối Văn 》là xin Đại từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát giúp đỡ chúng ta sám hối và tiêu trừ nghiệp chướng trên người của chúng ta ở kiếp trước và trong kiếp này, là kinh lớn để chúng ta sám hối với chư Phật. Có công dụng thích hợp một số trường hợp :sám hối nghiệp chướng gây ra trong quá khứ. Chẳng hạn như đã làm tổn thương người khác về mặt tình cảm, những thù oán tích tụ gần mấy chục năm, nghiệt chướng, đã từng bất kính với Bồ Tát, làm hư hại tranh ảnh, tượng Bồ Tát…
+ Bài tập mỗi ngày: Thông thường 1 biến đến 7 biến mỗi ngày tụng niệm đến trăm năm về sau (có thể tụng niệm cả đời đến khi về già). Sáng hay tối đều có thể tụng niệm.
+ Trước khi niệm《Lễ Phật Đại Sám hối Văn 》 Thỉnh cầu: Nam Mô Đại từ Đại bi, cứu khổ cứu nạn, quảng đại linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát phù hộ con XXX (XXX là tên người niệm kinh) giúp đỡ con sám hối và tiêu trừ những nghiệp chướng trên người con (hoặc có thể nhắc đến một bộ phận nào trên cơ thể),phù hộ con mạnh khỏe, mở mang trí tuệ.
+ Những việc cần chú ý: Trong quá trình lúc tụng niệm 《Lễ Phật Đại Sám Hối Văn 》, nếu cảm thấy có bộ phận nào trên cơ thể không được khỏe, cảm thấy bị bệnh, vậy là nghiệt chướng đã được kích hoạt thành ( 灵性:vong linh) , đây là việc tốt. Bây giờ phát ra sớm so với việc sau này về già bị bệnh nặng tốt hơn nhiều. Thông thường có thể tụng niệm 4 đến 7 tấm ngôi nhà nhỏ, nếu người bị bệnh nặng, xin vui lòng tụng niệm thêm vài tấm cho đến khi cơ thể cảm thấy bệnh đã được thuyên giảm.
(Trích Cẩm nang nhập môn Pháp Môn Tâm Linh)
Nghe BTPP tập 7 Thiện Ác Đều Là Nhân Quả để biết rõ hơn.
I. Nội dung Lễ Phật Đại Sám Hối Văn Hán Việt được trích từ Tập Kinh Sách Pháp Môn Tâm Linh:
Đại Từ Đại Bi Mẫn Chúng Sinh, Đại Hỷ Đại Xả Tế Hàm Thức; Tướng Hảo Quang Minh Dĩ Tự Nghiêm,
Chúng Đẳng Chí Tâm Quy Mạng Lễ. (Nhất bái)
Nam Mô Quy Y Kim Cang Thượng Sư. (Nhất bái)
Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng. (Nhất bái)
Ngã Kim Phát Tâm: Bất vị tự cầu nhân thiên phúc báo,
Thanh Văn, Duyên Giác, nãi chí Quyền Thừa chư vị Bồ Tát;
Quy y Tối Thượng Thừa, Phát Bồ Đề Tâm, nguyện dữ Pháp giới chúng sanh,
nhất thời đồng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. (Nhất bái)
Nam Mô Quy Y Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhất Thiết Chư Phật. (Nhất bái)
Nam Mô Quy Y Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhất Thiết Tôn Pháp. (Nhất bái)
Nam Mô Quy Y Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhất Thiết Hiền Thánh Tăng. (Nhất bái)
Nam Mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. (Nhất bái)
Nam Mô Phổ Quang Phật
Nam Mô Phổ Minh Phật
Nam Mô Phổ Tịnh Phật
Nam Mô Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật
Nam Mô Chiên Đàn Quang Phật
Nam Mô Ma Ni Tràng Phật
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật
Nam Mô Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật
Nam Mô Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật
Nam Mô Tuệ Cự Chiếu Phật
Nam Mô Hải Đức Quang Minh Phật
Nam Mô Kim Cang Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật
Nam Mô Đại Cường Tinh Tấn Dũng Mãnh Phật
Nam Mô Đại Bi Quang Phật
Nam Mô Từ Lực Vương Phật
Nam Mô Từ Tạng Phật
Nam Mô Chiên Đàn Khốt Trang Nghiêm Thắng Phật
Nam Mô Hiền Thiện Thủ Phật
Nam Mô Thiện Ý Phật
Nam Mô Quảng Trang Nghiêm Vương Phật
Nam Mô Kim Hoa Quang Phật
Nam Mô Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật
Nam Mô Hư Không Bảo Hoa Quang Phật
Nam Mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật
Nam Mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật
Nam Mô Bất Động Trí Quang Phật
Nam Mô Hàng Phục Chúng Ma Vương Phật
Nam Mô Tài Quang Minh Phật
Nam Mô Trí Huệ Thắng Phật
Nam Mô Di Lặc Tiên Quang Phật
Nam Mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật
Nam Mô Thế Tịnh Quang Phật
Nam Mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật
Nam Mô Nhật Nguyệt Quang Phật
Nam Mô Nhật Nguyệt Châu Quang Phật
Nam Mô Tuệ Tràng Thắng Vương Phật
Nam Mô Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương Phật
Nam Mô Diệu Âm Thắng Phật
Nam Mô Thường Quang Tràng Phật
Nam Mô Quán Thế Đăng Phật
Nam Mô Tuệ Uy Đăng Vương Phật
Nam Mô Pháp Thắng Vương Phật
Nam Mô Tu Di Quang Phật
Nam Mô Tu Man Na Hoa Quang Phật
Nam Mô Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương Phật
Nam Mô Đại Tuệ Lực Vương Phật
Nam Mô A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang Phật
Nam Mô Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật
Nam Mô Tài Quang Phật
Nam Mô Kim Hải Quang Phật
Nam Mô Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Phật
Nam Mô Đại Thông Quang Phật
Nam Mô Nhất Thiết Pháp Thường Mãn Vương Phật
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Kim Cang Bất Hoại Phật
Nam Mô Bảo Quang Phật
Nam Mô Long Tôn Vương Phật
Nam Mô Tinh Tấn Quân Phật
Nam Mô Tinh Tấn Hỷ Phật
Nam Mô Bảo Hỏa Phật
Nam Mô Bảo Nguyệt Quang Phật
Nam Mô Hiện Vô Ngu Phật
Nam Mô Bảo Nguyệt Phật
Nam Mô Vô Cấu Phật
Nam Mô Ly Cấu Phật
Nam Mô Dũng Thí Phật
Nam Mô Thanh Tịnh Phật
Nam Mô Thanh Tịnh Thí Phật
Nam Mô Sa Lưu Na Phật
Nam Mô Thủy Thiên Phật
Nam Mô Kiên Đức Phật
Nam Mô Chiên Đàn Công Đức Phật
Nam Mô Vô Lượng Cúc Quang Phật
Nam Mô Quang Đức Phật
Nam Mô Vô Ưu Đức Phật
Nam Mô Na La Diên Phật
Nam Mô Công Đức Hoa Phật
Nam Mô Liên Hoa Quang Du Hí Thần Thông Phật
Nam Mô Tài Công Đức Phật
Nam Mô Đức Niệm Phật
Nam Mô Thiện Danh Xưng Công Đức Phật
Nam Mô Hồng Diệm Đế Tràng Vương Phật
Nam Mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật
Nam Mô Đấu Chiến Thắng Phật
Nam Mô Thiện Du Bộ Phật
Nam Mô Châu Táp Trang Nghiêm Công Đức Phật
Nam Mô Bảo Hoa Du Bộ Phật
Nam Mô Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Sa La Thụ Vương Phật
Nam Mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật
(Dĩ thượng bát thập cửu Phật, bát thập cửu bái)
Như thị đẳng nhất thiết thế giới, chư Phật Thế Tôn, thường trụ tại thế.
Thị chư Thế Tôn, đương từ niệm ngã :
Nhược ngã thử sanh, nhược ngã tiền sanh, tòng vô thủy sanh tử dĩ lai, sở tác chúng tội,
nhược tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ;
Nhược tháp, nhược Tăng, nhược Tứ phương Tăng vật, nhược tự thủ, nhược giáo tha thủ, kiến thủ tùy hỷ;
Ngũ vô gián tội, nhược tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ;
Thập bất thiện đạo, nhược tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ;
Sở tác tội chướng, hoặc hữu phú tàng, hoặc bất phú tàng, ứng đọa địa ngục, ác quỷ, súc sinh,
chư dư ác thú, biên địa hạ tiện, cập Miệt Lệ Xa, như thị đẳng xứ.
Sở tác tội chướng, kim giai sám hối. (Nhất bái)
Kim chư Phật Thế Tôn, đương chứng tri ngã, đương ức niệm ngã.
Ngã phục ư chư Phật Thế Tôn tiền, tác như thị ngôn:
Nhược ngã thử sanh, nhược ngã dư sanh, tằng hành bố thí, hoặc thủ tịnh giới,
nãi chí thí dữ súc sinh nhất đoàn chi thực;
Hoặc tu tịnh hạnh, sở hữu thiện căn;
Thành tựu chúng sanh, sở hữu thiện căn;
Tu hành Bồ Đề, sở hữu thiện căn;
cập Vô Thượng Trí, sở hữu thiện căn;
nhất thiết hợp tập, giảo kế trù lượng, giai tất hồi hướng, A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Như quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, sở tác hồi hướng, ngã diệc như thị hồi hướng.
Chúng tội giai sám hối, chư phước tận tùy hỷ; cập thỉnh Phật công đức, nguyện thành Vô Thượng Trí. (Nhất bái)
Khứ, lai, hiện tại Phật, ư chúng sanh tối thắng.
Vô lượng công đức hải, ngã kim quy mạng lễ. (Nhất bái)
Sở hữu thập phương thế giới trung, Tam thế nhất thiết Nhân Sư Tử.
Ngã dĩ thanh tịnh thân ngữ ý, nhất thiết biến lễ tận vô dư.
Phổ Hiền hạnh nguyện oai thần lực, Phổ hiện nhất thiết Như Lai tiền.
Nhất thân phục hiện sát trần thân, nhất nhất biến lễ sát trần Phật. (Nhất bái)
Ư nhất trần trung trần số Phật, các xứ Bồ Tát chúng hội trung.
Vô tận Pháp giới trần diệc nhiên, Thâm tín chư Phật giai sung mãn.
Các dĩ nhất thiết âm thanh hải, Phổ xuất vô tận diệu ngôn từ.
Tận ư vị lai nhất thiết kiếp, Tán Phật thậm thâm công đức hải.
Dĩ chư tối thắng diệu hoa man, Kỹ nhạc đồ hương cập tản cái.
Như thị tối thắng trang nghiêm cụ, Ngã dĩ cúng dường chư Như Lai.
Tối thắng y phục tối thắng hương, Mạt hương thiêu hương dữ đăng chúc.
Nhất nhất giai như Diệu Cao Tụ, Ngã tất cúng dường chư Như Lai.
Ngã dĩ quảng đại thắng giải tâm, Thâm tín nhất thiết tam thế Phật.
Tất dĩ Phổ Hiền hạnh nguyện lực, Phổ biến cúng dường chư Như Lai. (Nhất bái)
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp, Giai do vô thỉ tham sân si.
Tòng thân ngữ ý chi sở sanh, Nhất thiết ngã kim giai sám hối. (Nhất bái)
Thập phương nhất thiết chư chúng sanh, Nhị Thừa hữu học cập vô học.
Nhất thiết Như Lai dữ Bồ Tát, Sở hữu công đức giai tùy hỷ. (Nhất bái)
Thập phương sở hữu thế gian đăng, Tối sơ thành tựu Bồ Đề giả.
Ngã kim nhất thiết giai khuyến thỉnh, Chuyển ư Vô Thượng diệu Pháp Luân. (Nhất bái)
Chư Phật nhược dục thị Niết Bàn, Ngã tất chí thành nhi khuyến thỉnh.
Duy nguyện cửu trụ sát trần kiếp, Lợi lạc nhất thiết chư chúng sinh. (Nhất bái)
Sở hữu lễ tán cúng dường phước, Thỉnh Phật trụ thế chuyển Pháp Luân.
Tùy hỷ sám hối chư thiện căn, Hồi hướng chúng sanh cập Phật đạo. (Nhất bái)
Nguyện tương dĩ thử thắng công đức, Hồi hướng Vô Thượng Chân Pháp Giới.
Tánh tướng Phật Pháp cập Tăng Già, Nhị đế dung thông tam muội ấn.
Như thị vô lượng công đức hải, Ngã kim giai tất tận hồi hướng.
Sở hữu chúng sanh thân khẩu ý, Kiến hoặc đàn báng ngã pháp đẳng.
Như thị nhất thiết chư nghiệp chướng, Tất giai tiêu diệt tận vô dư.
Niệm niệm trí châu ư Pháp giới, Quảng độ chúng sanh giai bất thối.
Nãi chí hư không thế giới tận, Chúng sanh cập nghiệp phiền não tận.
Như thị tứ pháp quảng vô biên, Nguyện kim hồi hướng diệc như thị. (Nhất bái)
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. (Tam xưng tất khởi lập)
Người viết dịch nghĩa sử dụng cho mục đích cá nhân
Thỉnh cầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quán Thế Â m Bồ Tát Ma Ha Tát
phù hộ cho con___ (họ tên mình) giúp con sám hối và tiêu trừ nghiệp chướng ở__ (trên người hoặc bộ phận nào đó trên cơ thể),phù hộ cho con thân thể khỏe mạnh, mở mang trí tuệ.
Lễ Phật và Đại Sám Hối Văn
Đức Từ Bi rộng lớn, xót thương muôn loài,
Tâm Hỷ Xả vô biên, cứu độ khắp nơi nơi.
Thân tướng rạng ngời, Tướng hảo, Quang minh tự tại.
Chúng con đồng lòng quy y kính lễ. (Một lạy)
Nam Mô Quy Y Kim Cang Thượng Sư. (Một lạy)
Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng. (Một lạy)
Con nay phát Bồ Đề tâm: Chẳng vì tự cầu phước báo cõi Người, Trời, Thanh Văn, Duyên Giác, cho đến chư vị Bồ Tát Quyền Thừa;
Chỉ nương theo Tối Thượng Thừa, phát Bồ Đề Tâm, nguyện cùng Pháp giới chúng sinh,
đồng cùng chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề). (Một lạy)
Con xin hết lòng quy y lên tất cả chư Phật ở khắp mười phương cho đến tận cùng cõi hư không giới. (1 lạy)
Con xin hết lòng quy y lên tất cả tôn Pháp ở khắp mười phương cho đến tận cùng cõi hư không giới. (1 lạy)
Con xin hết lòng quy y lên tất cả Hiền Thánh Tăng ở khắp mười phương cho đến tận cùng cõi hư không giới. (1 lạy)
Nam Mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. (1 lạy)
Dưới đây niệm mỗi vị Phật cùng 1 lạy:
Nam Mô Phổ Quang Phật
Nam Mô Phổ Minh Phật
Nam Mô Phổ Tịnh Phật
Nam Mô Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật
Nam Mô Chiên Đàn Quang Phật
Nam Mô Ma Ni Tràng Phật
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật
Nam Mô Nhất Thiết Thế Gian Nhạc Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật
Nam Mô Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật
Nam Mô Tuệ Cự Chiếu Phật
Nam Mô Hải Đức Quang Minh Phật
Nam Mô Kim Cang Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật
Nam Mô Đại Cường Tinh Tấn Dũng Mãnh Phật
Nam Mô Đại Bi Quang Phật
Nam Mô Từ Lực Vương Phật
Nam Mô Từ Tạng Phật
Nam Mô Chiên Đàn Khốt Trang Nghiêm Thắng Phật
Nam Mô Hiền Thiện Thủ Phật
Nam Mô Thiện Ý Phật
Nam Mô Quảng Trang Nghiêm Vương Phật
Nam Mô Kim Hoa Quang Phật
Nam Mô Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật
Nam Mô Hư Không Bảo Hoa Quang Phật
Nam Mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật
Nam Mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật
Nam Mô Bất Động Trí Quang Phật
Nam Mô Hàng Phục Chúng Ma Vương Phật
Nam Mô Tài Quang Minh Phật
Nam Mô Trí Tuệ Thắng Phật
Nam Mô Di Lặc Tiên Quang Phật
Nam Mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật
Nam Mô Thế Tịnh Quang Phật
Nam Mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật
Nam Mô Nhật Nguyệt Quang Phật
Nam Mô Nhật Nguyệt Châu Quang Phật
Nam Mô Tuệ Tràng Thắng Vương Phật
Nam Mô Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương Phật
Nam Mô Diệu Âm Thắng Phật
Nam Mô Thường Quang Tràng Phật
Nam Mô Quán Thế Đăng Phật
Nam Mô Tuệ Uy Đăng Vương Phật
Nam Mô Pháp Thắng Vương Phật
Nam Mô Tu Di Quang Phật
Nam Mô Tu Man Na Hoa Quang Phật
Nam Mô Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương Phật
Nam Mô Đại Tuệ Lực Vương Phật
Nam Mô A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang Phật
Nam Mô Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật
Nam Mô Tài Quang Phật
Nam Mô Kim Hải Quang Phật
Nam Mô Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Phật
Nam Mô Đại Thông Quang Phật
Nam Mô Nhất Thiết Pháp Thường Mãn Vương Phật
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Kim Cang Bất Hoại Phật
Nam Mô Bảo Quang Phật
Nam Mô Long Tôn Vương Phật
Nam Mô Tinh Tấn Quân Phật
Nam Mô Tinh Tấn Hỷ Phật
Nam Mô Bảo Hỏa Phật
Nam Mô Bảo Nguyệt Quang Phật
Nam Mô Hiện Vô Ngu Phật
Nam Mô Bảo Nguyệt Phật
Nam Mô Vô Cấu Phật
Nam Mô Ly Cấu Phật
Nam Mô Dũng Thí Phật
Nam Mô Thanh Tịnh Phật
Nam Mô Thanh Tịnh Thí Phật
Nam Mô Sa Lưu Na Phật
Nam Mô Thủy Thiên Phật
Nam Mô Kiên Đức Phật
Nam Mô Chiên Đàn Công Đức Phật
Nam Mô Vô Lượng Cúc Quang Phật
Nam Mô Quang Đức Phật
Nam Mô Vô Ưu Đức Phật
Nam Mô Na La Diên Phật
Nam Mô Công Đức Hoa Phật
Nam Mô Liên Hoa Quang Du Hí Thần Thông Phật
Nam Mô Tài Công Đức Phật
Nam Mô Đức Niệm Phật
Nam Mô Thiện Danh Xưng Công Đức Phật
Nam Mô Hồng Diệm Đế Tràng Vương Phật
Nam Mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật
Nam Mô Đấu Chiến Thắng Phật
Nam Mô Thiện Du Bộ Phật
Nam Mô Châu Táp Trang Nghiêm Công Đức Phật
Nam Mô Bảo Hoa Du Bộ Phật
Nam Mô Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Sa La Thụ Vương Phật
Nam Mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật
(Trên đây là 89 vị Phật, lạy 89 lạy)
Trong tất cả thế giới, các Đức Phật Thế Tôn thường trụ ở đời.
Các Đức Thế Tôn, xin hãy từ bi nghĩ đến con:
Dù trong đời này hay đời trước, từ vô thỉ sanh tử đến nay, tất cả tội lỗi con đã tạo ra,
hoặc tự mình làm, hoặc dạy người khác làm, thấy người khác làm mà vui theo;
hoặc xâm phạm tháp Phật, Tăng già, hoặc tài vật của Tăng già khắp khắp mười phương,
hoặc tự mình lấy, hoặc dạy người khác lấy, thấy người khác lấy mà vui theo;
Năm tội vô gián, hoặc tự mình làm, hoặc dạy người khác làm, thấy người khác làm mà vui theo;
Mười nghiệp bất thiện, hoặc tự mình làm, hoặc dạy người khác làm, thấy người khác làm mà vui theo;
Những tội chướng đã gây ra, hoặc có che giấu, hoặc không che giấu, đáng đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, các nẻo ác khác, những nơi biên địa hạ tiện, và các xứ tăm tối, những chỗ khổ ải như thế.
Tất cả những tội chướng đã gây ra, nay con đều xin sám hối. (Lạy một lạy)
Nay các Đức Phật Thế Tôn, xin chứng tri cho con, xin nhớ nghĩ đến con.
Con lại trước các Đức Phật Thế Tôn, xin nói những lời như sau:
Nếu con trong đời này hay những đời khác, từng thực hành bố thí, hoặc giữ giới thanh tịnh, cho đến thí cho súc sanh một nắm cơm;
hoặc tất cả thiện căn đến từ tu hành tịnh hạnh;
tất cả thiện căn đã làm để giúp chúng sanh được thành tựu;
tất cả thiện căn để tu hành đạt tới Giác ngộ;
và tất cả thiện căn để thành tựu Trí tuệ vô thượng;
Con xin dâng lên tất cả và nguyện hồi hướng toàn bộ công đức ấy đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).(Một lạy)
Như chư Phật trong ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại đã hồi hướng như thế nào, con cũng xin hồi hướng như thế ấy. (Một lạy)
Tất cả tội lỗi đều xin sám hối, tất cả các phước đức đều xin tùy hỷ; cùng công đức thỉnh Phật trụ thế và chuyển Pháp Luân, nguyện cầu thành tựu Trí Vô Thượng. (Một lạy)
Chư Phật trong ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại, là bậc tối thắng trong muôn loài.
Với biển công đức vô lượng, nay con xin quy mạng lễ. (Một lạy)
Trong tất cả thế giới mười phương, tất cả các bậc Nhân Sư Tử (Phật) trong ba đời.
Con dùng thân, ngữ, ý thanh tịnh, khắp nơi lễ bái hết không sót một vị nào.
Nhờ oai thần lực của hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền, con hiện khắp trước tất cả các Đức Như Lai.
Một thân con lại hiện thành số thân bằng số hạt bụi trong các cõi Phật, mỗi thân ấy khắp lễ số Phật bằng số hạt bụi trong các cõi Phật. (Một lạy)
Trong một hạt bụi có số Phật bằng số hạt bụi, mỗi Đức Phật đều ở trong hội chúng Bồ Tát.
Các hạt bụi trong Pháp giới vô tận cũng đều như thế, con tin sâu rằng chư Phật đều đầy khắp nơi.
Con dùng biển âm thanh của tất cả (lời tán thán), khắp phát ra vô tận lời lẽ vi diệu.
Cho đến hết tất cả các kiếp vị lai, con xin tán thán biển công đức rất sâu mầu của chư Phật.
Con dùng các tràng hoa vi diệu tối thắng, âm nhạc, hương xoa và lọng báu.
Với các vật trang nghiêm tối thắng như thế, con xin cúng dường chư Như Lai.
Y phục tối thắng, hương thơm tối thắng, hương bột, hương đốt và đèn nến.
Từng thứ đều nhiều như núi Tu Di, con đều xin cúng dường chư Như Lai.
Con dùng tâm quảng đại thù thắng, tin sâu tất cả chư Phật trong ba đời.
Đều nương vào lực hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, khắp nơi cúng dường chư Như Lai. (Một lạy)
Tất cả ác nghiệp con đã gây tạo từ trước, đều do tham, sân, si vô thỉ.
Từ thân, ngữ, ý mà sanh ra, tất cả con nay đều xin sám hối. (Một lạy)
Tất cả chúng sanh trong mười phương, hàng nhị thừa đang tu tập và hàng đã thành tựu quả vị.
Tất cả chư Như Lai và Bồ Tát, tất cả công đức của các Ngài, con đều xin tùy hỷ. (Một lạy)
Tất cả những bậc thắp lên ngọn đèn Pháp trong mười phương thế giới, những vị vừa mới thành tựu Bồ Đề.
Nay con xin hết lòng khuyến thỉnh các Ngài, hãy chuyển bánh xe Pháp vi diệu Vô Thượng. (Một lạy)
Nếu chư Phật sắp thị hiện Niết Bàn, con xin hết lòng chí thành khuyến thỉnh các Ngài.
Duy nguyện các Ngài trụ lại lâu bằng số kiếp hạt bụi, để lợi lạc cho tất cả chúng sanh. (Một lạy)
Tất cả phước báu do lễ bái, tán thán, cúng dường, thỉnh Phật trụ thế và chuyển Pháp Luân.
Các căn lành do tùy hỷ và sám hối,
Nay con xin hồi hướng cho tất cả chúng sanh và con đường thành Phật đạo. (Một lạy)
Nguyện xin đem công đức thù thắng này, hồi hướng cho Chân Pháp Giới Vô Thượng.
Nơi tánh tướng của Phật, Pháp, Tăng Già, nơi sự dung thông của chân đế và tục đế đạt tam muội chánh định.
Biển công đức vô lượng như thế, nay con đều xin hồi hướng trọn vẹn.
Nguyện cho tất cả chúng sanh; những nghiệp chướng phát sinh từ thân, khẩu, ý, từ thấy biết sai lầm, hoặc phỉ báng Phật Pháp..;
tất cả những nghiệp chướng như thế đều xin tiêu diệt sạch hết không còn sót lại.
Nguyện cho niệm niệm trí tuệ tỏa khắp Pháp giới, rộng độ chúng sanh đều không còn thối chuyển trên con đường tu tập.
Cho đến khi thế giới hư không hết, chúng sanh và nghiệp phiền não hết.
Bốn pháp này rộng lớn vô biên, nguyện nay con hồi hướng cũng rộng lớn vô biên như thế. (Một lạy)
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. (Niệm ba lần, rồi đứng dậy).
Chú thích:
Năm tội Vô Gián bao gồm:
- Giết cha (Sát phụ): Hành động giết người đã sinh ra và nuôi dưỡng mình.
- Giết mẹ (Sát mẫu): Hành động giết người đã mang nặng đẻ đau và chăm sóc mình.
- Giết một vị A-la-hán (Sát A-la-hán): A-la-hán là bậc Thánh đã chứng đắc Niết-bàn, đoạn trừ mọi phiền não, là phước điền của thế gian. Giết một vị A-la-hán là phá hoại ruộng phước, làm tổn hại Phật pháp.
- Làm thân Phật chảy máu (Xuất Phật thân huyết): Cố ý gây thương tích cho một vị Phật, dù chỉ làm chảy một giọt máu. Vì Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn, có lòng từ bi vô hạn, nên hành động này thể hiện sự ác tâm cực độ. (Lưu ý: Theo kinh điển, không ai có thể giết được một vị Phật, nhưng có thể làm tổn thương thân thể Ngài).
- Chia rẽ Tăng đoàn (Phá hòa hợp Tăng): Gây chia rẽ, phá hoại sự hòa hợp và đoàn kết của Tăng đoàn (cộng đồng các nhà sư, những người tu hành theo lời Phật dạy). Tăng đoàn là nơi duy trì và truyền bá Phật pháp, nên việc chia rẽ Tăng đoàn được coi là tội rất nặng, làm suy yếu Phật pháp.
Tại sao những tội này lại nặng đến vậy?
- Cha mẹ: Là những người có ơn sinh thành, dưỡng dục sâu nặng nhất. Giết cha mẹ là hành vi vô ơn, tàn nhẫn, đi ngược lại đạo lý làm người.
- A-la-hán và Phật: Là những bậc Thánh, những người thầy dẫn đường tâm linh, mang lại lợi ích to lớn cho chúng sinh. Hãm hại các Ngài là hủy hoại ngọn đèn trí tuệ, cắt đứt con đường giải thoát của nhiều người.
- Tăng đoàn: Là nền tảng để Phật pháp được duy trì và phát triển. Phá hoại sự hòa hợp của Tăng đoàn làm suy yếu sức mạnh của Phật pháp, gây hoang mang cho tín đồ.
Mười nghiệp bất thiện được chia thành ba nhóm:
I. Ba nghiệp bất thiện thuộc về THÂN (Thân nghiệp):
- Sát sinh (Pāṇātipāta): Cố ý giết hại, làm tổn hại mạng sống của chúng sinh, từ người cho đến các loài động vật, côn trùng.
- Trộm cắp (Adinnādāna): Lấy những gì không được cho, chiếm đoạt tài sản của người khác một cách bất chính.
- Tà dâm (Kāmesumicchācāra): Quan hệ tình dục bất chính, không đúng đắn, như ngoại tình, quan hệ với người chưa đến tuổi thành niên, hoặc những hành vi tình dục gây tổn hại cho người khác hoặc vi phạm chuẩn mực đạo đức xã hội (theo quan điểm Phật giáo).
II. Bốn nghiệp bất thiện thuộc về KHẨU (Khẩu nghiệp - Lời nói):
- Nói dối (Musāvāda): Nói những điều không đúng sự thật, lừa gạt người khác.
- Nói lời hai lưỡi / Nói đâm thọc (Pisuṇāvācā): Nói những lời gây chia rẽ, làm mất đoàn kết, nói xấu người này với người kia và ngược lại.
- Nói lời hung ác / Nói lời thô ác (Pharusāvācā): Nói những lời cay độc, chửi rủa, mắng nhiếc, làm tổn thương người khác.
- Nói lời thêu dệt / Nói lời vô ích (Samphappalāpa): Nói những lời sáo rỗng, vô nghĩa, chuyện phiếm, tán gẫu không mang lại lợi ích, hoặc những lời bóng bẩy, hoa mỹ nhằm mục đích xấu.
III. Ba nghiệp bất thiện thuộc về Ý (Ý nghiệp - Suy nghĩ):
- Tham lam (Abhijjhā): Mong muốn, thèm khát những gì thuộc về người khác, muốn chiếm hữu tài sản, danh vọng, hay bất cứ thứ gì của người khác một cách bất chính.
- Sân hận (Vyāpāda): Có ý nghĩ tức giận, căm ghét, oán thù, muốn làm hại, mong muốn người khác gặp điều không may.
- Tà kiến (Micchādiṭṭhi): Có những nhận thức, quan điểm sai lầm, lệch lạc, không tin vào nhân quả, nghiệp báo, luân hồi, không tin có Phật, Pháp, Tăng, hoặc phủ nhận những chân lý căn bản của Đạo Phật. Đây được coi là nghiệp bất thiện nặng nhất trong ba nghiệp ý, vì nó làm sai lệch toàn bộ nhận thức và dẫn dắt đến nhiều hành động sai lầm khác.
Ý nghĩa của việc nhận biết Mười nghiệp bất thiện:
- Tránh ác làm lành: Hiểu rõ những hành động này giúp người Phật tử biết điều gì nên tránh để không tạo nghiệp xấu, không gây đau khổ cho mình và người.
- Nền tảng tu tập: Việc giữ gìn không phạm Mười nghiệp bất thiện là nền tảng căn bản của giới luật và đạo đức Phật giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tu tập thiền định và phát triển trí tuệ.
- Hướng đến an lạc: Bằng cách từ bỏ những hành động bất thiện này và thực hành Mười nghiệp thiện (điều ngược lại), con người có thể đạt được sự an lạc, hạnh phúc trong hiện tại và tương lai.
Bốn pháp này rộng lớn vô biên:
Vì chúng sanh còn vô lượng, nghiệp và phiền não của chúng sanh còn vô biên, và phạm vi tồn tại của chúng (trong hư không thế giới) còn mênh mông không cùng tận, nên sự hồi hướng công đức và chí nguyện tu tập của con cũng phải rộng lớn và kéo dài vô biên như vậy.
Trong giáo lý Phật giáo, việc nói "Chúng sanh, nghiệp, phiền não đều hết" là để chỉ một giới hạn cùng cực giả định, một điểm chấm dứt lý thuyết cho những gì được coi là rộng lớn vô biên trong vòng luân hồi sinh tử. Việc chúng được coi là "vô biên" hay "vô lượng" xuất phát từ bản chất của luân hồi và các yếu tố duy trì nó:
Chúng sanh còn vô lượng (The number of sentient beings is immeasurable/boundless):
- Từ vô thủy (Beginninglessness): Theo Phật giáo, vòng luân hồi sinh tử không có điểm khởi đầu. Chúng sanh đã trải qua vô số kiếp sống trong vô lượng thời gian. Do đó, số lượng chúng sanh đã từng tồn tại, đang tồn tại và sẽ tiếp tục tái sinh là không thể tính đếm được. Giống như bạn không thể đếm được tất cả hạt cát trên bãi biển của tất cả các đại dương trong suốt lịch sử.
- Đa dạng cảnh giới: Chúng sanh không chỉ tồn tại trong một thế giới hay một dạng sống, mà ở khắp các cảnh giới (Trời, Người, A-tu-la, Súc sanh, Ngạ quỷ, Địa ngục) trong vô số thế giới khác nhau khắp mười phương. Sự mênh mông của vũ trụ (Pháp giới) và sự tồn tại đa dạng trong đó khiến số lượng chúng sanh trở nên vô lượng.
- Sự tái sinh liên tục: Chừng nào còn vô minh và ái dục, chúng sanh sẽ tiếp tục tạo nghiệp và tái sinh. Vòng quay này không dừng lại một cách tự nhiên cho đến khi vô minh và ái dục bị đoạn trừ.
- Nghiệp còn vô biên (Karma is immeasurable/boundless):
- Do chúng sanh vô lượng: Vì số lượng chúng sanh là vô lượng và đã trải qua vô số kiếp sống, nên tổng số hành động (nghiệp) mà họ đã tạo ra trong suốt thời gian đó cũng là vô biên.
- Do tạo nghiệp liên tục: Trong mỗi khoảnh khắc tồn tại, chúng sanh (nhất là phàm phu) đều liên tục tạo nghiệp thông qua thân, khẩu, ý. Ngay cả những suy nghĩ, lời nói tưởng chừng nhỏ nhặt cũng là nghiệp. Với số lượng chúng sanh khổng lồ và thời gian vô thủy, lượng nghiệp tích lũy và đang được tạo ra là không thể đếm xiết.
- Tính phức tạp của nghiệp: Nghiệp không chỉ là hành động đơn lẻ mà là mạng lưới nhân quả chằng chịt, phức tạp, liên kết với nhau qua vô số đời. Sự tương tác của nghiệp từ vô số chúng sanh càng làm cho tổng thể nghiệp trở nên vô biên.
Phiền não còn vô biên (Afflictions are immeasurable/boundless):
- Gốc rễ của luân hồi: Phiền não (như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến...) là nguyên nhân chính thúc đẩy chúng sanh tạo nghiệp và luân hồi. Gốc rễ sâu xa nhất của phiền não là Vô minh (sự không hiểu biết về sự thật).
- Vô minh là vô thủy: Vì luân hồi là vô thủy, nên vô minh – động lực chính của luân hồi – cũng là vô thủy. Chừng nào vô minh chưa bị phá vỡ, phiền não sẽ tiếp tục phát sinh và vận hành.
- Phiền não đa dạng và vi tế: Có vô số loại phiền não khác nhau, từ thô thiển đến vi tế, ảnh hưởng đến mọi suy nghĩ, cảm xúc, hành động của chúng sanh. Với số lượng chúng sanh vô lượng, mỗi chúng sanh lại có vô số loại phiền não khác nhau với cường độ khác nhau, khiến tổng thể phiền não trong Pháp giới trở nên vô biên.
Tóm lại, chúng sanh, nghiệp, và phiền não được coi là vô biên vì:
- Tính vô thủy của Luân hồi: Vòng quay này không có điểm bắt đầu trong lịch sử, do đó mọi thứ trong đó dường như cũng không có giới hạn tự nhiên.
- Mối quan hệ nhân quả: Chúng sanh, nghiệp và phiền não là những yếu tố duyên sinh, nương tựa vào nhau để tồn tại và thúc đẩy nhau vận hành trong vòng luân hồi. Phiền não dẫn đến nghiệp, nghiệp dẫn đến tái sinh (chúng sanh mới), chúng sanh lại tiếp tục tạo nghiệp do phiền não... Vòng tuần hoàn này tự duy trì và mở rộng theo thời gian vô thủy.
- Phạm vi không gian vô tận: Chúng sanh tồn tại trong vô số thế giới, làm cho số lượng chúng sanh và nghiệp, phiền não của họ trải rộng khắp không gian vô biên.
Tác Dụng Lễ Phật Đại Sám Hối Văn:
Lễ Phật Đại Sám Hối Văn Niệm bao nhiêu biến và thời gian bao lâu thì tỉ lệ nghiệp chướng sẽ giảm còn 20%
Khán giả nam: 20% nghiệp chướng của một người có được tính là một số lượng tương đối nhỏ, và 50% trở lên được tính là nhiều không?
Đài trưởng trả lời: Có ,thông thường 40% nói chung đã là nhiều rồi và 50% là không cần nói nữa . 50% về cơ bản là không thể đầu thai làm người và chỉ có thể đầu thai vào những nơi xa ở nông thôn hoặc đầu thai động vật
(Ví dụ :nếu chúng con không gọi được điện thoại xem Đồ Đằng, không biết có bao nhiêu nghiệp chướng, nếu mỗi ngày “Lễ Phật Đại Sám Hối Văn” niệm 5 biến thì cơ bản tiêu trừ để còn 20% thì trong bao lâu?)
Nếu không tạo nghiệp mới. , từ từ dần dần niệm 5 biến mỗi ngày, thường thì 2-3 năm
(2-3 năm, cần 1 thời gian rất dài)
Đúng
(Và sau khi tiêu trừ vẫn còn dấu vết, phải không?)
Sau khi tiêu trừ thì vẫn còn dấu vết, nhưng nếu có bất kỳ dấu vết nào đi nữa,miễn là ta không tạo ra nghiệp mới, dấu vết sẽ từ từ tiêu tan. Ví dụ đơn giản, khi cậu mua một thứ gì đó, người ta sẽ đưa cho cậu một hóa đơn, lúc đó cậu có thể nhìn thấy rõ ràng, thầy hỏi cậu, nếu cậu để nó ở đó sau vài năm thì tự nó có bị mờ dần đi không? Đôi khi cả mực in chữ trên giấy cũng không còn
(Uhm)
Wenda20150130 02:03