Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh và tác dụng của kinh văn


Đọc Online Kinh Sách  tại đây
Hướng dẫn tải Kinh Sách tại đây.
Thỉnh Kinh Sách miễn phí tại đây.

Chú ý: Pháp môn Tâm Linh không kêu gọi quyên góp tài vật với bất kỳ mục đích gì.

I. Nội dung Tâm Kinh Hán Việt được trích từ Tập Kinh Sách Pháp Môn Tâm Linh:

BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

Quán Tự Tại Bồ Tát. Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời. Chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử. Sắc bất dị không. Không bất dị sắc. Sắc tức thị không. Không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức. Diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử. Thị chư pháp không tướng. Bất sanh bất diệt. Bất cấu bất tịnh. Bất tăng bất giảm.
Thị cố không trung vô sắc. Vô thọ tưởng hành thức. Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý. Vô sắc thanh hương vị xúc pháp. Vô nhãn giới. Nãi chí vô ý thức giới. 
Vô vô minh diệc vô vô minh tận. Nãi chí vô lão tử. Diệc vô lão tử tận. Vô khổ tập diệt đạo. Vô trí diệc vô đắc. 
Dĩ vô sở đắc cố. Bồ Đề Tát Đỏa. Y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố. Tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố. Vô hữu khủng bố. Viễn ly điên đảo mộng tưởng. Cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật. Y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố. Đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa. Thị đại thần chú. Thị đại minh chú. Thị vô thượng chú. Thị vô đẳng đẳng chú. Năng trừ nhất thiết khổ. Chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú. Tức thuyết chú viết.
Yết đế yết đế. Ba la yết đế. Ba la tăng yết đế. Bồ đề tát bà ha.
Ma ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. (3 lần)

Dịch nghĩa ( Dùng để tham khảo ý nghĩa Kinh Văn)

Thỉnh cầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quán Thế Â m Bồ Tát Ma Ha Tát phù hộ cho con___ (đọc họ và tên mình) mở mang trí tuệ, đầu óc tỉnh táo bình tĩnh, tiêu trừ phiền não.

BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

Quán Tự Tại Bồ Tát quán chiếu Pháp tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Thấy rõ năm uẩn đều không có tự tánh. Giải thoát mọi khổ đau và ách nạn.
Xá Lợi Tử. Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc chính là không, không chính là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
Xá Lợi Tử, Tướng của các pháp là không. không sanh, không diệt.Không nhơ, không sạch. Không tăng, không giảm.
Cho nên, trong tánh không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới.
Không có vô minh và cũng không có hết vô minh. Cho đến không có già chết, và cũng không có hết già chết . Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí tuệ, và cũng không có chứng đắc. 
Vì không có gì để chứng đắc. Bồ Tát nương theo bát nhã ba la mật đa, nên tâm không chướng ngại. Vì không chướng ngại, nên không có sợ hãi. Xa lìa mọi điên đảo mộng tưởng. Đạt đến cứu cánh Niết bàn.
Chư Phật ba đời, nương theo bát nhã ba la mật đa, nên chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cho nên biết rằng Bát Nhã Ba La Mật Đa. là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là chú vô song. Diệt trừ mọi khổ đau, là chân thật, không hư dối.
Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa được tuyên thuyết như sau:
Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. 
Ma ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. (Niệm 3 lần)


II. Tác dụng của kinh văn:

《Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh 》gọi tắt 《Tâm Kinh 》, là tâm chú kết thông với Quán Thế Âm Bồ Tát, dùng tâm từ bi của Bồ Tát khai thông mở mang trí tuệ.《Tâm Kinh 》ở trên trời được xem là năng lượng, ở địa phủ được xem là tiền tài, ở nhân gian được xem là trí tuệ. Có công dụng thích hợp cho một số trường hợp như sau : trẻ nhỏ không nghe lời, người không tin Phật Pháp, những người lớn tuổi cố chấp, tâm trạng bất ổn, trí tuệ không được thông suốt mở mang, bệnh trầm cảm, ở địa ngục có thể siêu độ quỷ thần v.v.

+ Bài tập mỗi ngày: Thông thường 3 biến hoặc 7 biến trở lên, có thể trì tụng mỗi ngày đến trăm năm về sau (có thể niệm cả đời đến khi về già), sau 10h tối thì tốt nhất đừng tụng niệm, buổi tối thời tiết mưa gió, sấm sét khắc nghiệt tốt nhất cũng đừng tụng niệm.

(Biến - hay là số lần đọc Tâm Kinh từ tựa đề Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh đến hết một lần trọn vẹn)

+ Trước khi tụng niệm 《Tâm Kinh 》có thể cầu nguyện “Thỉnh cầu Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát gia hộ cho con XXX (XXX là họ tên người niệm kinh), mở mang trí tuệ, đầu óc tỉnh táo bình tĩnh, tiêu trừ phiền não (lúc trì tụng kinh nên chú ý tập trung tư tưởng.).

(Trích Cẩm nang nhập môn Pháp Môn Tâm Linh)

⚠️Thông thường 3 đến 7 biến mỗi ngày=> dành cho người mới học về sau tuỳ theo khả năng học, cảnh giới nâng cao và thời gian cho phép mọi người có thể tự tăng số lượng 9,11,….21,49,108 biến (như vậy niệm Ngôi Nhà Nhỏ sẽ có chất lượng hơn).

BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

(般 若 波 罗 蜜 多 心 经)

“Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh”, gọi tắt là “Tâm Kinh”, là tâm chú kết nối với Quán Thế Âm Bồ Tát, dùng tâm từ bi của Bồ Tát để khai mở trí tuệ. “Tâm Kinh” ở Thiên Giới là năng lượng, ở địa phủ là tiền tài, ở nhân gian là trí tuệ. Một số công năng phù hợp với: trẻ con không nghe lời, người lớn không tin Phật, người già quá cố chấp, tâm trạng không ổn định, trí tuệ không khai mở, trầm cảm, ở địa phủ có thể siêu độ quỷ thần v.v

Trích từ Phật Học Thường Thức Khai Thị Tập 1

III. Sư Phụ Lư Quân Hoành khai thị:

1. Kinh văn nằm ở sự vận dụng

Trích từ Lời Giải Đáp của Lư Đài Trưởng về Vấn Đề Huyền Học của Phật Tử

    Vì vậy, Tâm Kinh có thể giải quyết tất cả vấn đề, còn Chú Đại Bi cũng có thể giải quyết tất cả vấn đề, quan trọng là quý vị có thể vận dụng đến mức độ nào. Hãy nhớ có một bà lão, cả đời không biết niệm kinh, chỉ biết niệm “Om Mani Padme Hum”, nhưng cuối cùng chữ “Hum” bà còn niệm sai thành “Moo”, niệm cả đời “Om Mani Padme Moo”, cuối cùng bà vẫn Thượng Thiên, bà còn giỏi hơn các con. Tất cả kinh văn đều là một loại ý niệm, là một loại ý thức, là một loại thông tin. Vì vậy khi quý vị niệm, ví dụ quý vị niệm Tâm Kinh, cầu Quán Thế   Âm Bồ Tát phù hộ, quý vị cầu cái gì, Tâm Kinh của Bồ Tát sẽ gia trì cho quý vị cái đó. Nhưng có những người bản thân năng lượng không đủ, cơ thể không tốt, khi họ niệm Tâm Kinh, sự gia trì của thể năng lượng của họ sẽ ít hơn nhiều. Tâm Kinh là giúp quý vị giải quyết vấn đề từ trong hoàn cảnh, còn Chú Đại Bi là một thể năng lượng, vì vậy nhiều quỷ ở dưới nghe thấy Chú Đại Bi sẽ sợ hãi mà chạy trốn, còn Tâm Kinh, tất cả thần quỷ trong trời đất đều không sợ, đều cần nó. Vì vậy khi cơ thể quý vị không tốt, trong bệnh viện sợ hãi, đau khổ, có bệnh, quý vị nên thường niệm Chú Đại bi; khi cơ thể quý vị khỏe mạnh, năng lượng đầy đủ, quý vị có thể niệm thêm nhiều Tâm Kinh, hóa giải tai họa cũng là cầu gì linh đó.

2. Tâm Kinh là sự cô đọng của Kinh Kim Cương

Trích từ “Chiếu Kiến Ngũ Uẩn Giai Không” – Trích Bài giảng của Lư Đài Trưởng tại Quan  âm Đường 2020-06-23

Kinh  Kim Cương ” nói rằng, “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc”. Ý nghĩa là, học trí tuệ hôm nay, phải minh bạch rằng quá khứ, hiện tại và tương lai đều không thể nắm bắt. Thầy giải thích Tâm Kinh khó hiểu này bằng ngôn ngữ đơn giản để giúp mọi người hiểu và học trí tuệ của Phật tốt hơn. “Kinh Kim Cương” được cô đọng từ “Đại Bát Nhã Kinh”, hơn 5000 chữ của “Kinh Kim Cương” được cô đọng thành hơn 200 chữ của “Tâm Kinh”, các con nghĩ xem, “Tâm Kinh” có mạnh mẽ không? Các con niệm cần phải chú tâm hơn không? Các con niệm một lần “Tâm Kinh” thực ra là niệm “Kinh Kim Cương”. Nhiều đệ tử còn hỏi thầy: “Thầy ơi, chúng con có thể niệm ‘Kinh Kim Cương’ không?” Phải biết rằng, “Tâm Kinh” chính là sự cô đọng của “Kinh Kim Cương”.

3. Tâm Kinh giúp khai mở trí tuệ như thế nào (Wenda20110909 12:04)

Trích từ Wenda20110909 12:04

Thính giả: Tâm Kinh giúp khai mở trí tuệ như thế nào? Có phải vì niệm nhiều lần, hay thực sự Bồ Tát nghe thấy con niệm mà gia trì cho con, hay là nhờ ý nghĩa của văn tự mà con lý giải

Đài Trưởng: Được, trước hết Tâm Kinh từ đâu mà đến? Tâm Kinh là Tâm Kinh của Quán Thế  Âm Bồ Tát, tức là tất cả kinh văn của Bồ Tát, nhân gian rất khó lý giải, hiểu thấu. Giống như chúng ta học đại học, có nhiều thứ chúng ta không tự mình kiểm soát được, ví dụ như giáo sư dạy con một phương trình, con không cần biết phương trình đó từ đâu mà có, chỉ cần làm theo phương trình đó, con có thể giải quyết mọi vấn đề. Thứ hai, khi con niệm Tâm Kinh, tâm con hợp với tâm của Quán Thế  Âm Bồ Tát, con nghĩ xem Quán Thế Âm Bồ Tát là có cầu tất ứng, năng lượng của Bồ Tát lớn biết bao! con niệm Tâm Kinh sẽ mở hết mọi nút thắt trong tâm con, con sẽ kết nối với khí trường của Quán Thế  Âm Bồ Tát, là cảm giác như vậy

(Vậy có phải Quán Thế Âm Bồ Tát gia trì sẽ làm người ta ngộ nhanh hơn không ah?)

Đương nhiên, tại sao người ta cần tìm thầy? Ví dụ đơn giản, sách giáo khoa đại học có ở khắp nơi, con không đi học đại học, không có thầy, không có giáo sư dạy, con nghĩ con có thể tốt nghiệp không?

4. Nếu trong lòng không thông suốt thì nên niệm Tâm Kinh​

Trích từ Bạch Thoại Phật Pháp 170401

    Khi trong lòng không thông suốt thực tế chính là tâm bệnh, tâm bệnh cần dùng gì để chữa? Tâm bệnh cần dùng tâm để chữa. Chúng ta thường nói, khi trong lòng không thông suốt thì nên niệm Tâm Kinh. Tâm Kinh do Ngài Huyền Trang dịch là để hàng phục tà niệm trong tâm mình, dựa vào công đức và thần lực của Tâm Kinh để loại bỏ tâm ma của mình. Tâm lực và trí lực, trí tuệ có mối quan hệ mật thiết. Tâm lực và thần lực của Quán Thế  Âm Bồ Tát, pháp lực vô biên của Văn Thù Bồ Tát đại trí, nguyện lực trong tâm của Phổ Hiền Bồ Tát đại hành, cộng thêm Địa Tạng Vương Bồ Tát, bốn vị đại Bồ Tát có thể giúp chúng ta tu Phật, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, giúp chúng ta ở nhân gian không khởi phiền não, vượt qua mọi khổ nạn. Vượt qua mọi khổ nạn thì có thể hóa giải khổ nạn của mình, nhưng điều quan trọng nhất là gì? Chính là phải nhận thức được bản thân mình. Nhiều người cả đời không biết tính tình và khuyết điểm của mình, tham sân si mạn nghi… Phải biết rằng, quý vị có thể nhận thức bản thân, thì mới có thể độ hoá bản thân; quý vị có thể nhận thức chúng sinh, thì mới có thể độ hóa chúng sinh. Nếu hôm nay quý vị không nhận thức chúng sinh, thì làm sao có thể độ chúng sinh? Nếu hôm nay quý vị không biết mình tu Phật đến mức nào, thì làm sao có thể thành Phật?

5. Bí quyết diệu kỳ của Tâm Kinh

Trích từ Bạch Thoại Phật Pháp 170401

    Bí quyết diệu kỳ của Tâm Kinh nằm ở chỗ dùng tâm để đối phó với tâm không thuần khiết, tâm xấu. Nhiều người nói: “Nội tâm tôi từng bị tổn thương rất lớn, người khác dù có an ủi cũng không thể làm lành vết thương của tôi.” Thực tế Tâm Kinh có thể an ủi vết thương của quý vị. Bởi vì bản thân Tâm Kinh là để quý vị thông suốt, giúp quý vị ngộ đạo. Khi quý vị niệm kinh, như đang nói chuyện với Bồ Tát, quý vị sẽ dần dần hiểu rằng: tâm thực ra là vô ngại, cái thực sự cản trở tâm của chúng ta chính là lục căn lục trần của chúng ta, là do chúng ta không an ủi tốt tâm này, không thực sự hòa hợp tâm này với cảnh giới tu tâm của Bồ Tát.

6. Sau khi niệm Tâm Kinh, cầu nguyện sẽ linh nghiệm hơn (Wenda20161016B 24:15)

Trích từ Wenda20161016B 24:15

    Sư phụ dạy rằng, sau khi niệm Kinh Tâm Kinh xong, cầu nguyện sẽ linh nghiệm hơn. Ví dụ, con niệm 7 biến Tâm Kinh hoặc 21 biến Tâm Kinh, sau khi niệm xong, con có thể nói: “Quán Thế  Âm Bồ Tát, hôm nay con niệm tất cả các biến Tâm Kinh này, thỉnh Quán Thế  Âm Bồ Tát từ bi hiển linh, giúp con thành công trong một việc nào đó.” Có thể làm như vậy. Khi đó, 21 biến Tâm Kinh sẽ biến thành một loại năng lượng trí tuệ, trợ giúp con, khôi phục nhanh chóng để đạt được những điều tốt lành mà con cầu nguyện.

7. Trước khi niệm Tâm Kinh có thể cầu thỉnh cầu Quán Thế Âm Bồ Tát gia trì căn bổn 

Trích từ Wenda20180216 34:25

    Nam thính giả : Sư phụ từng giảng rằng: phải biết thỉnh Quán Thế  Âm Bồ Tát gia trì bổn căn của mình, con có thể nói: “Thỉnh Quán Thế  Âm Bồ Tát gia trì bổn căn của con.” Căn bổn là gì? Căn bổn chính là bổn tánh của con , bổn tánh Phật. Khi Quán Thế  Âm Bồ Tát gia trì căn bổn của con, con sẽ nhận được lòng từ bi của Bồ Tát, bổn tánh Phật sẽ xuất hiện, con sẽ có trí tuệ để giải quyết mọi vấn đề. Xin hỏi sư phụ, bình thường trước khi niệm Tâm Kinh chúng con có thể cầu nguyện như vậy không: “Thỉnh Quán Thế  Âm Bồ Tát gia trì căn bổn của chúng con, để chúng con khai mở trí tuệ.”

    Sư phụ đáp: Đương nhiên rồi, đã nên cầu nguyện như vậy từ lâu, chỉ là chưa ai hỏi. bổn căn là gì? Ví dụ đơn giản, trong xe hơi có điều hòa, con nóng, đổ mồ hôi, giống như những phiền não, sân hận… của con, hiện tại trong điều hòa không có dung dịch làm mát nên điều hòa thổi ra toàn gió nóng, nếu gia trì bổn căn của bạn – thêm dung dịch làm mát, thì điều hòa sẽ thổi ra gió mát, con sẽ không đổ mồ hôi nữa. Tương đương với việc giải quyết mọi phiền não (hiểu rồi).

8. Để khai ngộ gia đình, cần phải dành thời gian

Trích từ Zongshu20170504 29:17

    Nữ thính giả: Thưa Sư Phụ, trước đây con đã niệm Tâm Kinh 7 biến cho chồng con, vì cảm thấy không có tác dụng nên con đã tăng lên 27 biến . Một đồng tu nói rằng 27 biến có thể là quá nhiều, nên con đã thay đổi lại về 7 biến nhưng con cảm thấy 7 biến vẫn có vẻ là quá nhiều, nếu chưa đủ thì con sẽ tăng lên 21 biến . Điều này có ổn không ạ ?

Đài Trưởng: Con có thể niệm 17 biến, 13 biến hoặc 17 biến

    (27 biến là quá nhiều phải không ạ ?) Quá nhiều. Nếu con không thể khai ngộ, đôi khi con phải dành thời gian từ từ. Nếu trẻ học kém, nên mở mang trí óc và đưa kiến thức vào đó. Không thể đem sách vở đốt thành thành súp rồi rót vào? Con hiểu không? (Con hiểu rồi, cảm ơn Thầy)

9. Niệm Tâm Kinh trong tình huống khẩn cấp 

Trích từ Shuohua20151023 15:30

    Nữ thính giả : Hiện tại có một số đồng tu vì họ đều đang làm công việc tình nguyện và không có đủ thời gian nên họ chỉ niệm kinh bài tập chứ không niệm Ngôi Nhà Nhỏ. Nếu trong mộng có người cần kinh, Ngôi Nhà Nhỏ không đủ chỗ, liệu chúng ta có thể niệm Tâm Kinh cho người cần kinh trong mộng được không?

    Đài Trưởng : Nói chung Tâm Kinh không thể thay thế được Ngôi Nhà Nhỏ, nhưng nếu dịch bệnh bạo phát thì nên nhanh chóng niệm Tâm Kinh

(làm sao chúng ta có thể cầu nguyện Bồ Tát được?)

“ Thỉnh Quán Thế  Âm Bồ Tát, xin vong linh tạm thời không quấy rầy con, con sẽ niệm Ngôi Nhà Nhỏ cho họ, con trước mắt niệm 21 biến Tâm Kinh cho họ”

Lập tức thì tốt rồi.

10. Quán Tự Tại tức là tự nhận thức chính mình Trích Bạch Thoại Phật Pháp (12) 1. [Quan Thế Âm Bồ Tát]

    Tâm Kinh là của Quán Thế  Âm Bồ Tát dạy chúng ta tu tập để tâm sáng suốt, vì phàm phu không có minh tâm nên sẽ gặp phiền não, rồi sẽ phải chịu vô số đau khổ sinh tử, sinh ra đau khổ vô tận vô biên  trong sinh tử. Vì vậy, Tâm Kinh nói: “Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách ” là để dạy chúng ta nhận thức chính mình. Hiện nay , nhiều người không biết rõ nội tâm của chính mình, không biết ăn bao nhiêu bát cơm, không biết mình có bản lĩnh đến mức nào, chính là cái gì cũng đều làm không tốt, còn kiêu ngạo vô cùng. Cho nên Bồ Tát yêu cầu chúng ta “Quán Tự Tại ”, tức là trước hết phải biết rõ chính mình, nếu không biết chính mình thì làm sao tự độ mình và độ tất chúng sinh? Bây giờ có nhiều người có thể thay đổi được khuyết điểm của mình sau khi học Phật không? không thể.

11. Niệm Tâm Kinh để đối phó với tâm ma

Trích toạ đàm Phật Pháp tập 53 (Ý thức sơ cấp ảnh hưởng đến ý thức chính)

    Người ta thường bị mê muội trong chốc lát. Đôi khi một ý nghĩ xuất hiện và họ bị chiếm hữu. Đột nhiên, trong một giây, trong khoảnh khắc, “Tôi không thể nghĩ tới chuyện đó nữa, nếu tôi nghĩ đến chuyện đó nữa thì sẽ có chuyện gì đó xảy ra với tôi, tôi không thể nghĩ đến chuyện đó nữa.” Quý vị phải biết giây phút này quan trọng như thế nào đối với quý vị , trong nháy mắt quý vị không biết một giây đồng hồ quan trọng như thế nào đối với quý vị. Nếu bị sếp của quý vị ở nơi làm việc phê bình, quý vị nói: “Được rồi, sếp, tôi sẽ thay đổi” thì đừng nghĩ về điều đó nữa. Rất nhiều người khi bị sếp mắng sẽ nói: “Ông ấy sẽ sa thải tôi à? Người khác sẽ nghĩ sao? Ngày mai ông ấy sẽ làm gì với tôi?” Khi về nhà, họ ăn không ngon, ngủ không ngon – họ đã nhập vào tâm ma. Tôi không thể nghĩ tới điều đó, tóc tôi sẽ rụng mất. Trong giây lát, hãy tự nhủ đừng nghĩ về điều đó nữa và niệm Tâm Kinh để thay thế những ý niệm không thanh tịnh của mình. Người trí tuệ khi gặp điều gì không hiểu hoặc cảm thấy khó chịu thì liền niệm Tâm Kinh và cử động miệng thật nhanh để tự chủ, kiểm soát chính mình. Nếu còn đang suy nghĩ thì nên tụng ngay Tâm Kinh “Bát nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh…” Khi thật sự không thể tiếp tục niệm, hãy nhìn lão hòa thượng, khi gặp phiền não ông ấy sẽ nhắm mắt lại, “Nam Mô Quán  Âm Bồ Tát…” dùng âm thanh của chính mình để thay thế suy nghĩ, dùng âm thanh của chính mình để che đậy suy nghĩ của mình. Đây là điều Phật giáo dạy về việc ngăn vọng tưởng, gọi là “ngăn vọng”. Trên thế giới này có rất nhiều chuyện đều là tưởng tượng, thực ra đây chính là sự thay đổi của ý thức tâm linh. Một sự thay đổi nhỏ trong ý thức tâm linh không nhất thiết có nghĩa là nó đúng. Nhiều người cảm thấy điều gì đó là đúng sau khi họ đã tu dưỡng tâm mình, nhưng điều đó có thể không nhất thiết là đúng. Quý vị nên luôn đọc cuốn “Bạch Thoại Phật Pháp” của Sư Phụ.

12. Hãy chánh niệm khi niệm kinh

Trích từ Tập 64 Quan sát trí tuệ và đạt được tánh Không

    Vì thế Sư Phụ dạy quý vị rằng khi niệm kinh, quý vị nên quan sát tuệ. Ngay khi quý vị niệm kinh, quý vị nên kiểm tra xem mình có trí tuệ hay không. Chẳng hạn, khi niệm Tâm Kinh, quý vị phải nghĩ đến “Sắc bất dị không không bất dị sắc” cũng rất tốt . Ngay khi quý vị niệm Tâm Kinh, chờ đến khi câu này được thốt lên, sẽ khai mở được chút trí tuệ, cái này gọi là quán tuệ, quý vị phải định, quán tuệ sẽ đắc được định.

13. Tâm Kinh là một loại năng lượng

Trích từ Lời Giải Đáp của Lư Đài Trưởng về Vấn Đề Huyền Học của Phật Tử (5)

Hỏi: Tâm Kinh có chức năng khai mở trí tuệ, loại bỏ tạp niệm, làm đầu óc tỉnh táo, vậy ngoài những chức năng này, nó có thể hóa giải oan kết, tiêu trừ nghiệp chướng không?

Đáp: Thực tế, kinh văn không phải chỉ dành cho một hoàn cảnh đặc biệt nào, Tâm Kinh của Quán Thế  Âm Bồ Tát là một loại năng lượng, loại năng lượng này có thể giải quyết mọi vấn đề, chỉ là loại năng lượng này thích hợp hơn cho một số người, một số vấn đề mà thôi.

IV. Giải thích thêm

 (Chú ý: đây không phải là khai thị của sư phụ mà là giải nghĩa sang tiếng việt một số từ hay khái niệm của người viết):

Bồ Tát Quán Tự Tại: Có 2 nghĩa:

(Avalokiteśvara) Bồ Tát Quán Thế Âm, biểu tượng của lòng từ bi.

Các vị đại Bồ Tát tự tại hành thậm thâm bát nhã ba la mật đa.

Bát Nhã Ba La Mật: (Prajñāpāramitā) Trí tuệ hoàn hảo, sự hiểu biết sâu sắc về tánh Không của vạn pháp. "Ba La Mật" nghĩa là "đến bờ bên kia".

Ngũ Uẩn: Sắc (vật chất), Thọ (cảm giác), Tưởng (tri giác), Hành (ý chí), Thức (nhận thức). Năm yếu tố này tạo nên kinh nghiệm của chúng ta về thế giới.

Không (Śūnyatā): Không phải là "không có gì cả," mà là sự vắng mặt của bản chất cố định, độc lập và thường hằng. Mọi thứ đều nương tựa lẫn nhau để tồn tại, nên chúng ta không chấp trước vào tướng hiện có của mọi vật, hiện tượng.

Nhãn giới, ý thức giới:  kinh nghiệm của chúng ta về thế giới được phân tích thành 18 giới (Thập bát giới). 18 giới này được tạo thành từ sự tương tác của 6 căn, 6 trần và 6 thức:

 . 6 Căn (giác quan): Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý .

 . 6 Trần (đối tượng của giác quan): Sắc (hình tướng), thanh (âm thanh), hương (mùi), vị (vị), xúc (cảm giác xúc chạm), pháp (đối tượng tinh thần).

 . 6 Thức (sự nhận biết): Nhãn thức (nhận biết bằng mắt), nhĩ thức (nhận biết bằng tai), tỷ thức (nhận biết bằng mũi), thiệt thức (nhận biết bằng lưỡi), thân thức (nhận biết bằng thân), ý thức (nhận biết bằng ý).

Vô minh và già chết là: Toàn bộ 12 nhân duyên từ vô minh đến già chết đều không (Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, súc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, tử) (giải thích thêm về 12 nhân duyên vui lòng đọc dưới phần này)

Tứ Diệu Đế: Khổ (khổ đau), Tập (nguyên nhân của khổ đau), Diệt (sự chấm dứt khổ đau), Đạo (con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau). Đây là bốn chân lý nền tảng của Phật giáo.

A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề: Giác ngộ vô thượng, trí tuệ hoàn hảo.

Niết bàn: trạng thái an lạc tuyệt đối, giải thoát hoàn toàn.

Vô trí (Không có trí tuệ): Tức là kiến thức, hiểu biết dựa trên phân biệt nhị nguyên (ta và người, đúng và sai, thiện và ác). Ở đây, nó chỉ đến sự vượt qua trí tuệ thế gian, đạt đến trí tuệ Bát Nhã, một trí tuệ trực giác, thấy rõ tánh Không của vạn pháp.

Diệc vô đắc (không có chứng đắc): Cũng không có sự chứng đắc hay đạt được điều gì. Điều này ám chỉ rằng sự giác ngộ không phải là một cái gì đó có thể "đạt được" bằng nỗ lực hữu vi. Bởi vì bản chất của sự thật (tánh Không) vốn dĩ đã hiện hữu như nó vốn là, chỉ cần gỡ bỏ những che chướng (vô minh, chấp trước) thì tự tánh giác ngộ sẽ hiển lộ. Tất cả Pháp vốn đã tồn tại chúng ta chỉ nhờ cơ duyên mà nhận ra được như nó vốn là nên cũng không chấp trước những nhận ra đó mà cho là đạt được điều gì đó (chứng đắc).

Dĩ vô sở đắc cố (Vì không có gì để chứng đắc): Tức là, vì bản chất của sự thật là tánh Không, nên mọi vật vốn dĩ như nó Là, chúng ta chỉ nhận ra bản chất thật của nó, nên đừng chấp trước vào những đạt được thành tựu nào đó, tránh bản thân tự cao ngã mạn.

    Sự giác ngộ không phải là một quá trình tích lũy kiến thức hay đạt được một trạng thái đặc biệt nào đó. Đúng hơn, nó là sự nhận ra rằng mọi sự vật đều không có bản chất cố định và độc lập (tánh Không). Khi chúng ta hiểu được điều này, chúng ta sẽ buông bỏ những chấp trước và vướng mắc, và sự giác ngộ tự nhiên sẽ hiển lộ. Do đó, không có "trí tuệ" cần phải có, cũng không có gì để "chứng đắc" cả.

Chú: Một câu thần chú, thường được lặp đi lặp lại để tập trung tâm trí và đạt được sự giác ngộ.

Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha (Đi, đi, qua bờ kia, cùng nhau qua bờ kia, giác ngộ thành tựu): 

Mặc dù nghĩa đen của câu chú có thể dịch được, nhưng giá trị thực sự của nó nằm ở âm thanh và tác dụng tâm linh khi được niệm. Người ta tin rằng âm thanh này có thể giúp thanh lọc tâm trí và khai mở trí tuệ.

Ý nghĩa chung:

Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa là một bài kinh ngắn gọn nhưng sâu sắc, tóm tắt những điểm cốt lõi của Phật giáo Đại Thừa. Kinh nhấn mạnh rằng mọi hiện tượng đều là "không," có nghĩa là chúng không có bản chất cố định và độc lập. Hiểu được tánh "không" này, chúng ta có thể vượt qua những khổ đau và vướng mắc, đạt đến sự giác ngộ và giải thoát.

Chú thích:

12 nhân duyên:

Giáo lý 12 nhân duyên được trình bày rất nhiều trong Kinh điển Pali, đặc biệt là trong Phẩm Nhân Duyên (Paticcasamuppada Samyutta) thuộc Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya).

Dưới đây là trích đoạn kinh văn tiêu biểu mô tả chuỗi 12 nhân duyên theo chiều sinh khởi (sự xuất hiện của khổ) và chiều diệt đi (sự chấm dứt khổ), được tìm thấy trong nhiều bài Kinh trong Phẩm Nhân Duyên này (ví dụ, SN 12.1, SN 12.2, v.v.):

(Lưu ý: Cách dịch và dùng từ có thể khác nhau một chút tùy theo bản dịch tiếng Việt, nhưng ý nghĩa cốt lõi là tương đồng)

Trích từ Tương Ưng Bộ Kinh, Phẩm Nhân Duyên (SN 12)

Đức Phật dạy:

"Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các ông pháp Duyên khởi. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ nói.

Thế nào là Duyên khởi?

Do Vô Minh làm duyên, nên có các Hành. (Avijjāpaccayā saṅkhārā)
Do các Hành làm duyên, nên có Thức. (Saṅkhārapaccayā viññāṇaṁ)
Do Thức làm duyên, nên có Danh Sắc. (Viññāṇapaccayā nāmarūpaṁ)
Do Danh Sắc làm duyên, nên có Sáu Xứ (Lục Nhập). (Nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṁ)
Do Sáu Xứ (Lục Nhập) làm duyên, nên có Xúc. (Saḷāyatanapaccayā phasso)
Do Xúc làm duyên, nên có Thọ. (Phassapaccayā vedanā)
Do Thọ làm duyên, nên có Ái. (Vedanāpaccayā taṇhā)
Do Ái làm duyên, nên có Thủ. (Taṇhāpaccayā upādānaṁ)
Do Thủ làm duyên, nên có Hữu. (Upādānapaccayā bhavo)
Do Hữu làm duyên, nên có Sinh. (Bhavapaccayā jāti)
Do Sinh làm duyên, nên có Lão Tử (già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não). (Jātipaccayā jarāmaraṇaṁ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā)

Như vậy là toàn bộ khối khổ đau này sinh khởi.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự diệt của Duyên khởi?

Do Vô Minh diệt, nên các Hành diệt. (Avijjānirodhā saṅkhāranirodho)
Do các Hành diệt, nên Thức diệt. (Saṅkhāranirodhā viññāṇanirodho)
Do Thức diệt, nên Danh Sắc diệt. (Viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho)
Do Danh Sắc diệt, nên Sáu Xứ (Lục Nhập) diệt. (Nāmarūpanirodhā saḷāyatananirodho)
Do Sáu Xứ (Lục Nhập) diệt, nên Xúc diệt. (Saḷāyatananirodhā phassanirodho)
Do Xúc diệt, nên Thọ diệt. (Phassanirodhā vedanānirodho)
Do Thọ  diệt, nên Ái diệt. (Vedanānirodhā taṇhānirodho)
Do Ái diệt, nên Thủ diệt. (Taṇhānirodhā upādānanirodho)
Do Thủ diệt, nên Hữu diệt. (Upādānanirodhā bhavanirodho)
Do Hữu diệt, nên Sinh diệt. (Bhavanirodhā jātinirodho)
Do Sinh diệt, nên Lão Tử (già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt). (Jātinirodhā jarāmaraṇaṁ...)

Như vậy là toàn bộ khối khổ đau này chấm dứt."

Chuỗi 12 mắt xích Nhân Duyên, mỗi mắt xích là điều kiện (duyên) cho mắt xích tiếp theo xuất hiện. Chúng liên kết với nhau theo một chiều sâu sắc, thường được xem xét qua ba khía cạnh:

Sự xuất hiện của Khổ: Khi mắt xích này có, mắt xích kia có.

Sự chấm dứt của Khổ: Khi mắt xích này diệt, mắt xích kia diệt.

Giải thích quá trình Luân hồi: Chuỗi này thường được giải thích qua hai đời (đời quá khứ ảnh hưởng đời hiện tại, đời hiện tại ảnh hưởng đời vị lai) hoặc ba đời, hoặc thậm chí chỉ trong một sát-na tâm.

Dưới đây là giải thích chi tiết từng mắt xích trong chuỗi 12 nhân duyên:

1. Vô minh (Avijja):

Ý nghĩa: Sự thiếu hiểu biết, không nhận thức đúng về sự thật. Đặc biệt là không hiểu biết về Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo), không hiểu biết về Tam Pháp Ấn (Vô thường, Khổ, Vô ngã), không hiểu biết về Duyên khởi. Vô minh là không thấy sự vật, hiện tượng đúng như bản chất thật của chúng (vô thường, vô ngã, duyên sinh).

Vai trò: Vô minh là gốc rễ của toàn bộ vòng luân hồi và khổ đau. Vì vô minh mà chúng ta nhận thức sai lầm, chấp thủ vào "ta" và "của ta", từ đó phát sinh các hành động (tạo nghiệp).

Quan hệ: Vô minh làm duyên cho Hành phát sinh.

2. Hành (Sankhara):

Ý nghĩa: Các hoạt động tạo tác, các hành động có ý chí (nghiệp). Bao gồm nghiệp thân (hành động qua thân thể), nghiệp khẩu (lời nói), và nghiệp ý (suy nghĩ, ý định). Những hành động này được thúc đẩy bởi vô minh và các phiền não khác.

Vai trò: "Hành" là sự tích lũy các khuynh hướng nghiệp lực, tạo ra tiềm năng cho sự tái sinh và kinh nghiệm trong tương lai. Nó là những "sản phẩm" được tạo ra bởi vô minh.

Quan hệ: Vô minh làm duyên cho Hành phát sinh. Hành làm duyên cho Thức phát sinh.

3. Thức (Vinnana):

Ý nghĩa: Sự nhận biết, ý thức. Bao gồm sáu loại thức: nhãn thức (thấy), nhĩ thức (nghe), tỷ thức (ngửi), thiệt thức (nếm), thân thức (xúc chạm), và ý thức (suy nghĩ, nhận biết đối tượng tâm).

Vai trò: Thức là yếu tố nhận biết đối tượng. Trong bối cảnh luân hồi, Thức được xem là dòng chảy liên tục của ý thức, mang theo hạt giống nghiệp lực từ đời này sang đời khác, kết nối Hành (nghiệp quá khứ) với Danh sắc (thân tâm hiện tại).

Quan hệ: Hành làm duyên cho Thức phát sinh. Thức làm duyên cho Danh sắc phát sinh.

4. Danh sắc (Nama-rupa):

Ý nghĩa: Thân và tâm, cơ thể và các yếu tố tinh thần tạo nên một con người.

Danh (Nama): Là phần tinh thần, gồm các yếu tố tâm lý như cảm giác (thọ), tri giác (tưởng), ý chí/tâm hành (hành), và thức.

Sắc (Rupa): Là phần vật chất, thân thể, các yếu tố vật lý (đất, nước, gió, lửa) và các căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân).

Vai trò: Danh sắc là cấu trúc cơ bản của một chúng sinh có khả năng trải nghiệm và tương tác với thế giới. Nó là kết quả của sự tái sinh, được hình thành dựa trên nghiệp lực (Hành) và dòng chảy ý thức (Thức) từ đời trước.

Quan hệ: Thức làm duyên cho Danh sắc phát sinh. Danh sắc làm duyên cho Lục nhập phát sinh.

5. Lục nhập (Salayatana):

Ý nghĩa: Sáu căn (giác quan) và sáu trần (đối tượng giác quan) tương ứng. Sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Lục nhập là cửa ngõ để chúng ta tiếp xúc với thế giới.

Vai trò: Lục nhập là điều kiện để sự tiếp xúc (Xúc) xảy ra. Khi có thân và tâm (Danh sắc), các giác quan mới hoạt động và có thể tiếp nhận đối tượng từ bên ngoài (hoặc bên trong với ý căn).

Quan hệ: Danh sắc làm duyên cho Lục nhập phát sinh. Lục nhập làm duyên cho Xúc phát sinh.

6. Xúc (Phassa):

Ý nghĩa: Sự tiếp xúc. Là sự kết hợp của ba yếu tố: căn (giác quan), trần (đối tượng) và thức tương ứng. Ví dụ: mắt (căn) + sắc (trần) + nhãn thức = Xúc.

Vai trò: Xúc là điều kiện trực tiếp dẫn đến sự phát sinh của cảm giác (Thọ). Nó là khoảnh khắc mà sự tương tác giữa chủ thể và đối tượng xảy ra.

Quan hệ: Lục nhập làm duyên cho Xúc phát sinh. Xúc làm duyên cho Thọ phát sinh.

7. Thọ (Vedana):

Ý nghĩa: Cảm giác. Là sự cảm nhận về đối tượng, có ba loại: lạc thọ (dễ chịu), khổ thọ (khó chịu), và xả thọ (không dễ chịu cũng không khó chịu).

Vai trò: Thọ là điểm mấu chốt dẫn đến sự phát sinh của Ái (ái dục, tham ái). Cách chúng ta phản ứng với cảm giác (mong muốn cảm giác dễ chịu tồn tại, ghét bỏ cảm giác khó chịu, lờ đi cảm giác trung tính) chính là nguyên nhân sâu xa của khổ đau.

Quan hệ: Xúc làm duyên cho Thọ phát sinh. Thọ làm duyên cho Ái phát sinh.

8. Ái (Tanha):

Ý nghĩa: Tham ái, khát khao, thèm muốn, chấp thủ. Là sự mong muốn mãnh liệt đối với các đối tượng của giác quan (dục ái), mong muốn được tồn tại (hữu ái), và mong muốn được tiêu diệt (vô hữu ái).

Vai trò: Ái là nguyên nhân trực tiếp của khổ đau, như đã nêu trong Diệu Đế thứ hai (Tập đế). Nó là động lực thúc đẩy chúng ta bám víu vào sự vật và kinh nghiệm, từ đó tạo ra nghiệp mới dẫn đến tái sinh.

Quan hệ: Thọ làm duyên cho Ái phát sinh. Ái làm duyên cho Thủ phát sinh.

9. Thủ (Upadana):

Ý nghĩa: Chấp thủ, bám víu chặt chẽ. Là mức độ mãnh liệt hơn của Ái. Bao gồm bốn loại chấp thủ: chấp thủ dục vọng (bám vào khoái lạc giác quan), chấp thủ tà kiến (bám vào quan điểm sai lầm), chấp thủ giới cấm (bám vào nghi lễ, hình thức một cách mù quáng), chấp thủ ngã kiến (bám vào quan niệm về một cái "ta" thường hằng, bất biến).

Vai trò: Thủ là hành động bám chặt, củng cố thêm ý chí tạo nghiệp và dẫn đến sự "trở thành" (Hữu) một dạng tồn tại mới.

Quan hệ: Ái làm duyên cho Thủ phát sinh. Thủ làm duyên cho Hữu phát sinh.

10. Hữu (Bhava):

Ý nghĩa: Sự hiện hữu, sự trở thành, quá trình tồn tại. "Hữu" ở đây thường được hiểu là nghiệp hữu, tức là năng lực nghiệp (từ Hành, Ái, Thủ) chín muồi, tạo ra tiềm năng và điều kiện cho sự tái sinh trong một cảnh giới cụ thể (cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới).

Vai trò: Hữu là trạng thái sẵn sàng của nghiệp để đưa đến một kiếp sống mới. Nó là điều kiện trực tiếp cho Sanh (sự ra đời) xảy ra.

Quan hệ: Thủ làm duyên cho Hữu phát sinh. Hữu làm duyên cho Sanh phát sinh.

11. Sinh (Jati):

Ý nghĩa: Sự ra đời, sự tái sinh vào một cảnh giới nào đó. Là sự xuất hiện của Danh sắc và Lục nhập mới trong một kiếp sống.

Vai trò: Sanh là khởi đầu của một kiếp sống mới, nơi mà chúng sinh lại bắt đầu trải nghiệm toàn bộ chuỗi khổ đau.

Quan hệ: Hữu làm duyên cho Sanh phát sinh. Sanh làm duyên cho Lão tử phát sinh.

12. Lão tử (Jara-marana):

Ý nghĩa: Già và chết. Bao gồm cả sự suy yếu, bệnh tật, buồn bã, than khóc, khổ não, ưu sầu, tuyệt vọng – tất cả những gì đi kèm với quá trình già đi và cái chết trong một kiếp sống.

Vai trò: Lão tử là kết quả cuối cùng không thể tránh khỏi của việc đã Sanh. Nó là biểu hiện rõ ràng nhất của Khổ trong Tứ Diệu Đế.

Quan hệ: Sanh làm duyên cho Lão tử phát sinh.

Sự Luân Chuyển của Vòng Duyên Khởi:

Chuỗi 12 nhân duyên không dừng lại ở Lão tử. Chính sự vô minh (1) và tham ái/chấp thủ (8, 9) vẫn còn tồn tại trong chúng sinh đã trải qua Sanh và Lão tử (hoặc tiềm tàng từ kiếp trước) sẽ tiếp tục thúc đẩy sự tạo nghiệp (2 - Hành), dẫn đến sự tái sinh (10, 11 - Hữu, Sanh) trong một kiếp sống mới, và lại trải qua Lão tử (12). Cứ thế, vòng luân hồi tiếp diễn không ngừng nếu không có sự can thiệp để phá vỡ chuỗi này.

Ý nghĩa của 12 Nhân Duyên:

Giải thích Khổ: Nó cho thấy khổ đau không phải là ngẫu nhiên mà có nguyên nhân rõ ràng, bắt nguồn từ vô minh và ái dục.

Giải thích Vô ngã: Nó cho thấy cái mà chúng ta gọi là "tôi" hay "bản ngã" chỉ là một chuỗi các hiện tượng tâm lý và vật lý liên tục thay đổi, nương tựa vào nhau mà sinh khởi, không có một thực thể cố định, bất biến nào.

Chỉ ra con đường giải thoát: Nếu Khổ sinh khởi do các điều kiện (duyên), thì khi các điều kiện đó diệt đi, Khổ cũng sẽ diệt. Bằng cách tu tập Giới, Định, Tuệ theo Bát Chánh Đạo để diệt trừ Vô minh và Ái dục, chúng ta có thể phá vỡ chuỗi nhân duyên, chấm dứt luân hồi và đạt đến Niết Bàn.

Hiểu rõ 12 nhân duyên là chìa khóa để hiểu sâu sắc giáo lý Phật giáo về khổ, vô ngã và giải thoát.

------------------------------_()_-----------------------------

Mới hơn Cũ hơn